Tiếp nhận hồ sơ vụ án và thụ lý hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra tra chuyển đến
Khi nhận được bản kết luận điều tra đề nghị truy tố và hồ sơ vụ án hình sự kèm theo vật chứng do Cơ quan điều tra chuyển đến, người nhận hồ sơ phải đối chiếu bản kê tài liệu, vật chứng của Cơ quan điều tra với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và vật chứng kèm theo; kiểm tra việc giao bản kết luận điều tra cho bị can, người bào chữa theo quy định tại khoản 4 Điều 162 BLTTHS và xử lý như sau:
- Nếu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, vật chứng chưa đủ so với bản kê tài liệu, vật chứng của Cơ quan điều tra hoặc bản kết luận điều tra chưa được giao cho bị can, người bào chữa thì chưa nhận hồ sơ vụ án;
- Nếu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, vật chứng đủ so với bản kê tài liệu, vật chứng của Cơ quan điều tra và bản kết luận điều tra đã được giao cho bị can, người bào chữa, thì ký nhận và vào sổ thụ lý hồ sơ vụ án, ghi ngày nhận hồ sơ vào góc trên bên trái bìa hồ sơ và báo cáo ngay với Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra để chuyển hồ sơ vụ án cho Kiểm sát viên được phân công thụ lý giải quyết vụ án. Việc giao nhận hồ sơ giữa người nhận hồ sơ với Kiểm sát viên phải có xác nhận trong số thụ lý vụ án.
Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn
Sau khi thụ lý hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên kiểm tra ngay các biện pháp ngăn chặn đã áp dụng và báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật. Đối với biện pháp tạm giam thì xử lý như sau:
- Nếu thời hạn tạm giam còn dài hơn thời hạn truy tố đối với những loại tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 166BLTTHS và xét thấy cần thiết phải tiếp tục tạm giam bị can thì không phải ra lệnh tạm giam mới.
- Nếu còn thời hạn tạm giam nhưng không đủ để hoàn thành việc truy tố thì trước khi hết hạn tạm giam năm ngày, Kiểm sát viên phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, ra lệnh tạm giam mới. Thời hạn tạm giam cũ và mới không được quá thời hạn truy tố đối với từng tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 166 BLTTHS. Sau khi ra lệnh tạm giam mới, Viện kiểm sát chuyển ngay lệnh tạm giam cho Giám thị trại tạm giam, Trưởng nhà tạm giữ nơi bị can đang bị tạm giam.
Thời hạn xem xét, quyết định việc truy tố
- Thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án đối với từng loại tội phạm và ra các quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 166 BLTTHS.
- Chậm nhất là mười ngày trước khi hết thời hạn truy tố quy định tại đoạn 1 khoản 1 Điều 166 BLTTHS, nếu thấy vụ án phức tạp, có nhiều tài liệu, chứng cứ mâu thuẫn nhau cần có thêm thời gian nghiên cứu, tổng hợp chứng cứ hoặc thỉnh thị Viện kiểm sát cấp trên nên chưa thể đề xuất việc xử lý vụ án thì Kiểm sát viên phải báo cáo ngay với Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền quyết định gia hạn thời hạn truy tố theo quy định của BLTTHS.
Nghiên cứu hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra.
-Nghiên cứu các thủ tục tố tụng:
Kiểm tra các quyết định tố tụng; việc giao các quyết định tố tụng. Kiểm tra lại các hành vi tố tụng: Gồm các hoạt động của Điều tra viên trong quá trình khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, nhận dạng, đối chất, thực nghiệm Điều tra, lấy lời khai, hỏi cung và các hoạt động Điều tra xác minh...Việc nghiên cứu các hành vi tố tụng được tiến hành đồng thời với việc nghiên cứu nội dung vụ án.
- Nghiên cứu nhân thân của bị can:
+ Nghiên cứu lý lịch tư pháp của bị can: Yêu cầu lý lịch tư pháp của bị can phải là “Lý lịch bị can” theo mẫu của Bộ Công an. Lý lịch bị can phải phản ánh cụ thể đặc điểm nhân thân: Tuổi, bố mẹ, anh chị em, nghề nghiệp, tiền án, tiền sự và phải có xác nhận của chính quyền địa phương. Nếu bị can đăng ký nhân khẩu thường trú ở một nơi và cư trú ở nhiều nơi thì phải có xác nhận của chính quyền địa phương các nơi đó.
+ Nghiên cứu các tài liệu khác bổ sung lý lịch bị can như: Giấy khai sinh nếu bị can là người chưa thành niên hoặc là người già; kết luận giám định về sức khỏe, tâm thần đối với người có nhược điểm thể chất, tâm thần; các giấy tờ tài liệu về hoàn cảnh và đặc điểm gia đình như ông, bà, cha mẹ là liệt sỹ, thương binh, người có công với cách mạng; trích lục tiền án, tiền sự; các bản án; các quyết định và việc xác minh về việc chấp hành hình phạt tù, việc thi hành phần dân sự trong bản án (nếu có)...
+ Nghiên cứu tiền án, tiền sự: Việc nghiên cứu tiền án, tiền sự cần phải so sánh giữa các tài liệu sau: Lý lịch bị can, trích lục tiền án, tiền sự, các bản án, lời khai của bị can. Khi nghiên cứu phải đọc kỹ từng bản án về nội dung: Thời điểm phạm tội, tuổi, các hình phạt chính, bổ sung. Phải xem xét cụ thể: Ngày phạm tội, ngày xét xử, án có kháng cáo, ngày, tháng, năm cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thi hành án, ngày thi hành quyết định trên,.... để xem xét việc xóa án tích, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, nếu bị can chưa thi hành thì lý do của việc chưa thi hành là gì.
- Nghiên cứu Bản kết luận điều tra và các tài liệu, chứng cứ.
+ Nghiên cứu Bản kết luận điều tra: Kiểm sát viên nghiên cứu kết luận điều tra vụ án về nội dung vụ án, diễn biến hành vi phạm tội, các chứng cứ chứng minh tội phạm, căn cứ đề nghị truy tố, những quan điểm giải quyết các vấn đề liên quan như: Diện đề nghị truy tố, tội danh, Điều, khoản đề nghị truy tố theo đúng các quy định tại Điều 163, 164 BLTTHS. Ngoài ra, Kiểm sát viên cần đọc kỹ kết luận điều tra không chỉ để xem xét việc đề nghị truy tố mà còn kiểm tra nội dung kết luận điều tra có phản ánh đúng với hồ sơ điều tra hay không và phát hiện những vi phạm của Cơ quan điều tra để yêu cầu khắc phục kịp thời.
+ Nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu: Khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu của vụ án, Kiểm sát viên cần xác định có hành vi phạm tội xảy ra không, bị can (hoặc các bị can) phạm tội gì, theo điều khoản nào của BLHS, có đồng phạm không, tính chất mức độ, hậu quả, các tình tiết năng nặng, giảm nhẹ, thời gian xảy ra tội phạm (liên quan đến thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự), địa điểm xảy ra tội phạm (liên quan đến việc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ). Việc nghiên cứu phải khách quan trên cơ sở hệ thống các chứng cứ buộc tội, gỡ tội. Ngoài ra, Kiểm sát viên phải kiểm tra tính hợp pháp, có căn cứ của các tài liệu, chứng cứ đó. Nếu nội dung của các tài liệu đó có giá trị chứng minh được các vấn đề trong vụ án nhưng không được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục của BLTTHS thì sẽ không được coi là hợp pháp.
+ Nghiên cứu lời khai và biên bản hỏi cung bị can:
Trường hợp bị can nhận tội: Đối với những vụ án phạm tội quả tang, bị can nhận tội cần nghiên cứu kỹ biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang có thể xác định được nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can. Tuy nhiên, thường biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang lập không được chi tiết và đầy đủ về ý thức chủ quan, kể cả hành vi khách quan... do đó cần so sánh, nghiên cứu các lời khai, biên bản hỏi cung để làm sáng tỏ hành vi phạm tội của bị can. Đối với vụ án truy xét mà bị can nhận tội cũng phải hết sức thận trọng, phải xem xét lời khai nhận tội của bị can có phù hợp với các chứng cứ khác hay không, phải đọc kỹ các chi tiết mà bị can khai: Địa điểm, thời gian, đặc điểm tang vật, cách thức phạm tội... quan tâm nghiên cứu nội dung các bản tường trình, bản tự khai.
Trường hợp bị can không nhận tội thì cần phải nghiên cứu kỹ nội dung của lời khai của các bị can về việc bị can chứng minh ngoại phạm, về việc sử dụng thời gian của bị can khi xảy ra sự việc và các tình tiết có liên quan đến vụ án để phát hiện ra những mâu thuẫn ngay trong lời khai của bị can để có thể xác định lời khai đó không phù hợp với các chứng cứ khác và bác bỏ lời khai không nhận tội.
Trường hợp bị can lúc nhận tội, lúc chối tội, hoặc nhận một phần thì Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ cả những lần bị can khai nhận và không khai nhận để xem xét lời khai nào là khách quan và phù hợp với các chứng cứ khác. Đối với những lời khai của bị can mà Kiểm sát viên nghiên cứu thấy có nghi ngờ về tính khách quan hoặc chưa rõ những nội dung cần thiết, nhất là bị can một mực kêu oan không nhận tội thì Kiểm sát viên phải phúc cung bị can.
+ Nghiên cứu lời khai bị hại, nguyên đơn dân sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Kiểm sát viên cần chú ý lời khai của người bị hại về hành vi của bị can, về thiệt hại. Trong một số trường hợp, người bị hại thường hay khai theo cảm tính, chủ quan về hành vi của bị can và hay khai quá lên về thiệt hại. Trong vụ án mà bị hại có lỗi thì thường hay không nhận lỗi về mình. Do đó cũng cần phải đánh giá lời khai của người bị hại trong mối quan hệ với các chứng cứ khác. Chú ý nghiên cứu các yêu cầu đòi bồi thường, căn cứ của các yêu cầu đó để giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án.
+ Nghiên cứu lời khai người làm chứng: Kiểm sát viên cần chú ý xem xét lời khai của người làm chứng về nguyên nhân biết bị can và hành vi phạm tội của bị can. Việc biết được hành vi phạm tội của bị can trong hoàn cảnh, điều kiện nào, thời gian, địa điểm, khoảng cách, ánh sáng... so sánh lời khai của những người làm chứng khác.
+ Nghiên cứu biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi: Kiểm sát viên phải xem xét cụ thể, tỷ mỉ, chính xác và phải được so sánh với nhau, các dấu vết thương tích, dấu vết trên tang vật, dấu vết trên hiện trường, dấu vết trên các phương tiện v.v.. nếu phù hợp nhau sẽ là những chứng cứ phản ánh khách quan sự kiện phạm tội, hành vi phạm tội và trong nhiều vụ án nó có thể chứng minh bị can phạm tội mặc dù bị can chối tội. Nếu qua nghiên cứu các biên bản trên thấy nội dung biên bản chưa rõ hoặc có mâu thuẫn thì Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên hoặc những người thực hiện việc khám nghiệm trên giải thích hoặc bổ sung bằng văn bản.
+ Nghiên cứu Biên bản khám xét và biên bản thu giữ tang vật: Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ đặc điểm tang vật, vị trí để tang vật. Nhiều vụ án căn cứ vào đặc điểm, vị trí các nơi cất dấu tang vật có ý nghĩa lớn trong việc đấu tranh hoặc xác định hành vi phạm tội của bị can.
+ Nghiên cứu Biên bản đối chất: Được thực hiện khi các lời khai mâu thuẫn với nhau, do đó nội dung của biên bản đối chất phải nhằm giải quyết những mâu thuẫn đó để tìm ra sự thật. Kiểm sát viên có thể phối hợp với Điều tra viên thực hiện việc đối chất lại trong những trường hợp cần thiết.
+ Nghiên cứu Biên bản nhận dạng: Kiểm sát viên cần chú ý kiểm kiểm tra tính khách quan và chính xác của biên bản nhận dạng bảo đảm việc nhận dạng phải có người chứng kiến; các đối tượng được đưa ra nhận dạng là phải có những đặc điểm gần giống nhau.
+ Nghiên cứu kết luận giám định: Cần xem xét nội dung trưng cầu giám định của Cơ quan điều tra đã đầy đủ và đáp ứng yêu cầu của vụ án chưa, việc trả lời của Cơ quan giám định có đúng và đầy đủ theo yêu cầu của Cơ quan điều tra không, kết luận giám định có căn cứ không. Nếu thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, nếu có nghi ngờ thì yêu cầu Cơ quan giám định giải thích hoặc yêu cầu giám định lại.
+ Nghiên cứu tài liệu chứng minh thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra:
Thiệt hại về vật chất: Yêu cầu chung là xác định bằng các số liệu cụ thể trên cơ sở lời khai của người bị hại, nguyền đơn dân sự, các giấy tờ chứng minh trị giá tài sản, kết luận của Hội đồng định giá tài sản. Lưu ý trường hợp tang vật, tài sản không thu hồi được thì cần xem xét kỹ lời khai bị hại, chủ sở hữu về đặc điểm trị giá tài sản. Đối với kết luận của Hội đồng định giá tài sản thì phải xem xét Hội đồng định giá tài sản có đúng thành phần theo quy định tại Điều 5, 6 Nghị định 26/2005/NĐ-CP ngày 2/3/2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự hay không.
Thiệt hại phi vật chất: Là những ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội, đến uy tín của Đảng và Nhà nước được đánh giá thông qua dư luận xã hội nói chung và theo yêu cầu của từng thời điểm, của từng địa phương nói riêng thể hiện qua đơn thư của quần chúng nhân dân, công văn đề nghị của chính quyền địa phương…
+ Nghiên cứu tài liệu chứng minh các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 48 BLHS. Kiểm sát viên phải nghiên cứu tính hợp pháp của những tài liệu chứng minh các tình tiết tăng nặng bảo đảm các tài liệu đó phải phản ánh được tình tiết tăng nặng áp dụng đối với bị can. Ví dụ: Tình tiết phạm tội với người già, trẻ em thì đối với những trường hợp này phải có giấy khai sinh hoặc các tài liệu khác chứng minh độ tuổi của bị hại.
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 46 BLHS. Kiểm sát viên phải kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu mà bị can hoặc gia đình bị can xuất trình để hoặc các tài liệu mà Cơ quan điều tra thu thập để chứng minh các tình tiết giảm nhẹ.
+ Nghiên cứu các quyết định khác của Cơ quan điều tra: Quyết định xử lý vật chứng, quyết định truy nã đối với bị can bỏ trốn, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ đối với các bị can khác. Kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của các quyết định đó.
Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng các thủ tục tố tụng, tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, Kiểm sát viên phải đánh giá được những nội dung sau: Hồ sơ vụ án đã đầy đủ chưa? Nếu thiếu thì cần bổ sung, khắc phục vấn đề gì? Biện pháp khắc phục ra sao?
- Để giải quyết vụ án được đúng đắn, tránh oan, sai, sau khi nghiên cứu toàn bộ nội dung vụ án, Kiểm sát viên phải tổng hợp toàn bộ chứng cứ, xem xét đánh giá một cách toàn diện và khách quan trên cơ sở các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội; chứng cứ chứng minh tình tiết tăng năng, giảm nhẹ...
- Trên cơ sở hệ thống chứng cứ, Kiểm sát viên phải đánh giá chứng cứ theo quy định tại Điều 63 BLTTHS về những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự. Căn cứ Điều 66 BLTTHS thì việc xác định các chứng cứ thu thập được phải đảm bảo đủ để giải quyết vụ án hình sự trên cơ sở nguyên tắc chung là các chứng cứ phải đảm bảo tính xác thực, tính hợp pháp và tính liên quan; đồng thời việc đánh giá chứng cứ phải đặt trong tổng thể diễn biến của vụ án.
+ Sau khi xác định được hành vi phạm tội của bị can, Kiểm sát viên phải xem xét hành vi đó phạm vào tội gì, theo điều khoản nào của BLHS?
+ Việc nghiên cứu hồ sơ phải được ghi chép (trích cứu tài liệu) một cách khoa học, đầy đủ, cụ thể nhưng không dài dòng để có thể dễ dàng tổng hợp, phân tích, đánh giá.
- Cần chú ý: Hồ sơ kiểm sát không phải là sao chụp lại toàn bộ hồ sơ điều tra, mà phải thể hiện kết quả nghiên cứu của Kiểm sát viên. Khi trích cứu, Kiểm sát viên ghi những nội dung chính của tài liệu. Tuy nhiên, cũng có những tài liệu mà chi tiết lại hết sức quan trọng đối với việc kết tội, đánh giá chứng cứ… thì phải ghi cụ thể.
Khi trích cứu các tài liệu phải ghi rõ số bút lục, đặc biệt là với các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, báo cáo... cần phải ghi cả giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm.
Qua nghiên cứu hồ sơ phải ghi chép lại những vi phạm, thiếu sót và những điều cần phải bổ sung, ý kiến, quan điểm của Kiểm sát viên để làm cơ sở trao đổi với Điều tra viên hoặc báo cáo lãnh đạo Viện.
Báo cáo án.
- Sau khi nghiên cứu xong hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải đăng ký báo cáo án với lãnh đạo Viện. Việc báo cáo phải dựa trên kết quả nghiên cứu và phải bằng văn bản (có thể với tiêu đề: Phiếu đề xuất, bản báo cáo án…).
- Nội dung của báo cáo án phải thể hiện được các nội dung sau:
+ Lý lịch và đặc điểm nhân thân bị can: Họ tên tuổi, địa chỉ, nghề nghiệp của bị can, nếu là người chưa thành niên thì báo cáo rõ khi phạm tội là bao nhiêu tuổi, tháng, ngày. Có đặc điểm gì về bản thân và thân nhân. Các tiền án, tiền sự: có bao nhiêu tiền án về những tội gì? Đã được xóa án hay chưa? Tại sao?.
+ Tóm tắt toàn bộ nội dung vụ án: Thời gian địa điểm xảy ra tội phạm và hệ thống chứng cứ tài liệu chứng minh hành vi của bị can. Quan điểm của Cơ quan điều tra thể hiện ở bản kết luận điều tra. Quan điểm của Kiểm sát viên sau khi nghiên cứu hồ sơ và việc có chấp nhận hay không chấp nhận quan điểm của Cơ quan điều tra. Những đề xuất cụ thể của Kiểm sát viên: Về tội danh, điều, khoản áp dụng, chứng cứ, diện truy tố, hậu quả, vai trò của các bị can, các văn bản pháp luật được viện dẫn để áp dụng (Ví dụ: Luật giao thông đường bộ, Luật đất đai, Nghị Quyết, Thông tư...); những vướng mắc, khó khăn trong đánh giá chứng cứ, những vẫn đề cần xin ý kiến huỷ bỏ hoặc phục hồi quyết định của Cơ quan điều tra, yêu cầu khởi tố, bắt giam, truy nã, đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bị can, hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, chuyển vụ án theo thẩm quyền. Khi đề xuất những vấn đề trên, Kiểm sát viên cần phải có những căn cứ và lập luận cụ thể. Đối với những vụ án phức tạp, khi báo cáo cần nêu hết sức cô đọng, súc tích nội dung diễn biến vụ việc, xác định đâu là nội dung chính, cơ bản báo cáo trước, sau đó mới đi vào chi tiết. Nội dung báo cáo án cần đảm bảo nội dung báo cáo phải đầy đủ, cụ thể và chính xác. Cần tập trung báo cáo những vấn đề chính cần phải giải quyết đối với những vụ án, đặc biệt là những vụ án có vướng mắc.
Quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố
Trong thời hạn quyết định truy tố đối với từng tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 166 BLTTHS, Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xử lý như sau:
- Nếu thấy đủ căn cứ để quyết định truy tố thì Kiểm sát viên dự thảo Cáo trạng trình Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, duyệt ký. Cáo trạng phải phản ánh đúng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và đầy đủ các nội dung theo quy định tại Điều 167 BLTTHS và được lập theo mẫu do Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định.
- Nếu có căn cứ xác định thuộc một trong những trường hợp qui định tại Điều 168 BLTTHS thì Kiểm sát viên phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung.
- Nếu có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 BLTTHS hoặc tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 BLHS thì ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án đối với bị can;
- Nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây thì ra quyết định tạm đình chỉ vụ án hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can: Bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác mà có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y; Bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu (trong trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can).
- Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra các quyết định trên, Kiểm sát viên phải thông báo cho bị can, người bào chữa biết; giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị can và lập biên bản giao nhận đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu một bản vào hồ sơ kiểm sát; chuyển bản cáo trạng kèm theo hồ sơ vụ án đến Toà án có thẩm quyền xét xử.
Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát cấp dưới phải được gửi lên Viện kiểm sát cấp trên. Nếu quyết định đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát cấp dưới không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp ra quyết định huỷ bỏ các quyết định đó và yêu cầu Viện kiểm sát cấp dưới tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của BLTTHS.
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Theo quy định tại Điều 168 BLTTHS thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung khi nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện thấy: Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được; có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
-“Chứng cứ quan trọng đối với vụ án” quy định tại khoản 1 Điều 168 và điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS là chứng cứ quy định tại Điều 64 của BLTTHS dùng để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của BLTTHS và nếu thiếu chứng cứ này thì không thể giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật.
Thiếu những chứng cứ sau đây là trường hợp thiếu chứng cứ quan trọng đối với vụ án:
+ Chứng cứ để chứng minh “có hành vi phạm tội xảy ra hay không” là chứng cứ để xác định hành vi xảy ra đó có đủ yếu tố của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS hay thuộc các trường hợp không phải là hành vi phạm tội (phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ, quan hệ dân sự, kinh tế, vi phạm hành chính...);
+ Chứng cứ để chứng minh “thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định nếu có hành vi phạm tội xảy ra thì xảy ra vào thời gian nào, ở đâu; phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm như thế nào;
+ Chứng cứ để chứng minh “Ai là người thực hiện hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định một con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội đó;
+ Chứng cứ để chứng minh “có lỗi hay không có lỗi” là chứng cứ xác định người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có lỗi hay không có lỗi; nếu có lỗi thì thuộc trường hợp lỗi cố ý (lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp) hoặc lỗi vô ý (lỗi vô ý do quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả) theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 BLHS;
+ Chứng cứ để chứng minh “có năng lực trách nhiệm hình sự hay không” là chứng cứ xác định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay chưa; có mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hay không và nếu có thì mắc bệnh đó vào thời gian nào, trong giai đoạn tố tụng nào;
+ Chứng cứ để chứng minh “mục đích, động cơ phạm tội” là chứng cứ xác định người thực hiện hành vi phạm tội với mục đích, động cơ gì và trong trường hợp mục đích, động cơ phạm tội là yếu tố tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc là yếu tố (tình tiết) của cấu thành tội phạm hoặc là yếu tố (tình tiết) định khung hình phạt;
+ Chứng cứ để chứng minh tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo là chứng cứ xác định bị can, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 46 BLHS; có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 48 BLHS hoặc là chứng cứ xác định tình tiết định khung hình phạt;
+ Chứng cứ để chứng minh những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo là chứng cứ xác định lý lịch tư pháp của bị can, bị cáo;
+ Chứng cứ để chứng minh “tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra” là chứng cứ để đánh giá tính chất, hậu quả (vật chất và phi vật chất) của hành vi phạm tội trong việc xác định tội phạm và quyết định hình phạt;
+ Chứng cứ khác để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 BLTTHS mà thiếu chứng cứ đó thì không có đủ căn cứ để giải quyết vụ án, như: Chứng cứ để xác định chính xác tuổi của bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc xác định chính xác tuổi của người bị hại là trẻ em; chứng cứ để chứng minh vị trí, vai trò của từng bị can, bị cáo trong trường hợp đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức...
Chú ý: Viện kiểm sát không trả hồ sơ nếu là chứng cứ quan trọng nhưng nếu thiếu cũng truy tố, xét xử được hoặc không thể thu thập được. Ví dụ, có 3 người làm chứng nhưng chỉ xác định được 2 người hoặc hiện trường đã bị thay đổi không thể xem xét lại được; vật chứng đã mất không thể tìm được.
- “Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác” theo quy định tại khoản 2 Điều 168 của BLTTHS là căn cứ thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Khởi tố và điều tra về một hay nhiều tội nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can đã thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác;
+ Ngoài tội phạm đã khởi tố và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có căn cứ để khởi tố bị can về một hoặc nhiều tội khác;
+ Ngoài bị can đã bị khởi tố và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác có liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can.
Chú ý: Viện kiểm sát không trả hồ sơ để điều tra bổ sung nếu có căn cứ để tách vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 117 của BLTTHS.
-“Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” quy định tại khoản 3 Điều 168 và điểm c khoản 1 Điều 179 của BLTTHS là trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án.
Những trường hợp sau đây được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự:
+ Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của BLTTHS phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng đã không có phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;
+ Không yêu cầu cử người bào chữa cho bị can, bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của BLTTHS;
+ Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
+ Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của BLTTHS;
+ Nhập vụ án hoặc tách vụ án không có căn cứ và trái với quy định tại Điều 117 của BLTTHS;
+ Không giao các lệnh, quyết định tố tụng cho bị can, bị cáo theo đúng quy định của pháp luật xâm phạm đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo;
+ Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can; chưa xác định được những đặc điểm quan trọng về nhân thân của người có hành vi phạm tội (tuổi, tiền án, tiền sự của bị can, bị cáo);
+ Không có người phiên dịch cho người tham gia tố tụng trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc họ là người câm, điếc theo quy định tại Điều 61 của BLTTHS;
+ Không từ chối tiến hành tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng trong các trường hợp quy định tại Điều 42, Điều 60 và Điều 61 của BLTTHS;
+ Việc điều tra, thu thập chứng cứ quan trọng đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự;
+ Chứng cứ, tài liệu quan trọng đối với vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt làm sai lệch hồ sơ vụ án;
+ Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền, trừ trường hợp cơ quan có thẩm quyền phân công điều tra vụ án cụ thể;
+ Có căn cứ để xác định có việc mớm cung, bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật;
+ Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của họ…
Chú ý: Viện kiểm sát không trả hồ sơ để điều tra bổ sung mặc dù “có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Có vi phạm thủ tục tố tụng, nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng;
+ Bị can (bị cáo) là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra nhưng đến khi truy tố, xét xử bị can (bị cáo) đã đủ 18 tuổi.
Đình chỉ vụ án hoặc tạm đình chỉ vụ án.
- Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 BLTTHS hoặc tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 BLHS.
- Viện kiểm sát quyết định tạm đình chỉ vụ án trong những trường hợp sau đây:
+ Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác mà có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y;
+ Khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu; trong trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
- Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả các bị can, thì có thể đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với từng bị can.
- Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra một trong những quyết định đình chỉ vụ án hoặc tạm đình chỉ vụ án, Kiểm sát viên phải thông báo cho bị can, người bào chữa biết; giao quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị can và lập biên bản giao nhận đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu một bản vào hồ sơ kiểm sát.
- Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát cấp dưới phải được gửi lên Viện kiểm sát cấp trên. Nếu quyết định đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát cấp dưới không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp ra quyết định huỷ bỏ các quyết định đó và yêu cầu Viện kiểm sát cấp dưới tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của BLTTHS.
Bản cáo trạng.
- Theo Điều 13 Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và các điều 36, 166, 167 BLTTHS năm 2003, thì trên cơ sở thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự và sau khi nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ, khách quan hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra đề nghị truy tố của Cơ quan điều tra, nếu thấy có đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự thì Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử. Đây là quyền năng pháp lý rất quan trọng mà Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất được Nhà nước giao cho.
- Cáo trạng là văn bản pháp lý mang tính quyền lực Nhà nước – Quyền công tố, do Viện kiểm sát, nhân danh Nhà nước, truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, đúng pháp luật, tránh oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Bố cục của bản cáo trạng.
Bố cục của bản cáo trạng gồm có 4 phần: Phần nêu căn cứ pháp lý xác định việc truy tố của Viện kiểm sát; Phần mô tả hành vi phạm tội của bị can (các bị can); Phần kết luận; Phần quyết định.
* Phần nêu căn cứ pháp lý xác định việc truy tố của VKS.
- Ngoài tiêu đề và cụm từ Viện trưởng Viện kiểm sát… thì nêu căn cứ pháp luật trong việc ra quyết định truy tố của Viện kiểm sát là các điều 36, 166, 167 BLTTHS năm 2003.
- Nêu các căn cứ như:
Căn cứ Quyết định khởi tố vụ án hình sự số…. Ngày…. Tháng…. Năm… của …. Về tội…. Quy định tại khoản…. Điều…. Của BLHS.
Căn cứ Quyết định phục hồi điều tra số…. Ngày…. Tháng…. Năm…. Của …………………………………………………………………………….
Hoặc Quyết định nhập (tách) vụ án số…. Ngày…. Tháng…. Năm …………….
Của ……………… (nếu có).
Căn cứ Quyết định khởi tố bị can số…. Ngày…. Tháng…. Năm………… của …………………………………………………………………………….
Đối với …………………………về tội………………………………………..
quy định tại khoản…. Điều………….. của BLHS.
Căn cứ Quyết định chuyển vụ án hình sự số…. Ngày…. Tháng…. Năm……… của ……………(nếu có).
(Nếu vụ án có nhiều bị can, phạm nhiều tội thì chỉ ghi: Căn cứ các quyết định khởi tố bị can số… ngày… tháng… năm… về các tội… hoặc có các quyết định liên quan đến quá trình tố tụng thì phải ghi vào mục căn cứ).
Việc nêu các căn cứ này để xác định tính hợp pháp của các hoạt động điều tra, truy tố.
* Phần mô tả hành vi phạm tội của bị can (các bị can).
Đây là phần trọng tâm, phần quan trọng nhất của bản cáo trạng.
Sau phần mở đầu là câu chuyển tiếp “Trên cơ sở kết quả điều tra đã xác định được như sau:”
Nội dung phần này phải đạt được những yêu cầu mà Điều 167 BLTTHS đã quy định. Cụ thể là:
- Ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm.
+ Về thời gian xảy ra tội phạm, Kiểm sát viên cần ghi chính xác ngày… tháng… năm... xảy ra sự việc; còn về giờ, phút nếu xác định được chính xác thời gian xảy ra sự việc phải ghi rõ “vào hồi… giờ… phút”; nếu không xác định được chính xác thời gian xảy ra sự việc thì ghi “vào khoảng… giờ… phút”.
+ Về địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, nếu các địa điểm đó có số nhà, tên phố thì Kiểm sát viên phải mô tả chi tiết, cụ thể… Nếu các địa điểm đó có không có dố nhà, tên phố thì chỉ mô tả về khu vực nơi xảy ra tội phạm theo địa danh của thôn (xóm, đội), xã, phường, thị trấn, thị xã…
Ví dụ: “Vào khoảng ... giờ ...ngày ...tháng... năm... tại ... đã xảy ra sự việc phạm tội như sau:…”.
- Hành vi, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác.
+ Khi mô tả hành vi phạm tội của bị can, xác định hậu quả của vụ án... chính là nhằm trình bày những chứng cứ xác định tội của bị can, các chứng cứ đưa ra để chứng minh cho hành vi, động cơ, phương thức, thủ đoạn, công cụ phương tiện phạm tội... của tội phạm. Nó không những có giá trị thuyết phục mà còn là phương tiện để Kiểm sát viên buộc tội bị can trước tòa và là căn cứ để Hội đồng xét xử nhận định, đánh giá, kết luận bị cáo có phạm tội hay không? Chính vì vậy, một bản cáo trạng được xây dựng tốt, viện dẫn chứng cứ buộc tội đầy đủ và thuyết phục sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Kiểm sát viên làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố tại phiên tòa khi vụ án được đưa ra xét xử.
+ Bản cáo trạng sẽ kém thuyết phục khi các chứng cứ đưa ra không chọn lọc, thiếu logíc, không chặt chẽ. Vì vậy, khi viện dẫn chứng cứ để chứng minh tội phạm phải chọn lọc, đưa ra chứng cứ điển hình, có giá trị chứng minh cao như: Dấu vết, vật chứng, tài liệu, chứng từ, kết luận của Giám định viên, lời khai của người làm chứng... Viện dẫn chính xác và đầy đủ chứng cứ buộc tội bị can chính là nhằm phản ánh bản chất của vụ án, làm rõ hành vi, thủ đoạn thực hiện tội phạm của bị can trong cáo trạng. Cần nắm vững các nội dung đã được quy định tại Điều 63 BLTTHS (những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự). Chỉ khi nào các nội dung này được chứng minh một cách thuyết phục thì việc buộc tội mới chặt chẽ, đầy đủ.
Khi mô tả hành vi phạm tội của bị can (các bị can) Kiểm sát viên cần chú ý:
+ Nếu vụ án có đồng phạm thì phải chứng minh vai trò của từng người đồng phạm. Hành vi vượt ra khỏi sự thoả thuận với những người đồng phạm khác của đối tượng nào trong vụ án cũng phải được phân tích chi tiết để cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với người đó.
+ Đối với những vụ án đơn giản, ít nghiêm trọng có thể nêu đầy đủ diễn biến của tội phạm theo thời gian.
+ Đối với những vụ án bị can bị khởi tố trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng bị can khai nhận trước đó đã thực hiện một số hành vi phạm tội thì cần mô tả hành vi phạm tội quả tang trước, sau đó mô tả các hành vi phạm tôi trước đó của bị can theo trình tự thời gian.
+ Nếu vụ án có một bị can phạm nhiều tội có thể nêu theo diễn biến của từng tội phạm theo thời gian hoặc nêu các tội theo tính chất của từng tội phạm, từ tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng đến tội phạm ít nghiêm trọng.
+ Nếu vụ án có nhiều bị can phạm một tội có thể nêu diễn biến của tội phạm theo thời gian hoặc theo vai trò của từng bị can. Khi nêu cần chú ý làm rõ tính chất, mức độ tham gia của từng bị can. Đồng thời, cúng cần chú ý phân tích các tình tiết liên quan đến trách nhiệm riêng của từng bị can như các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
+ Nếu vụ án có nhiều bị can phạm nhiều tội có thể nêu theo diễn biến của từng tội phạm hoặc nêu từng bị can (phạm tội bao nhiêu lần, các hành vi phạm tội cụ thể...). Sau đó tổng kết đánh giá vai trò của từng bị can trong đồng phạm.
+ Yêu cầu khi nêu và phân tích phải viện dẫn chứng cứ thể hiện trong hồ sơ (trích dẫn các bút lục). Khi phân tích chỉ cần vừa đủ khẳng định các bị can phạm tội gì, theo điểm, khoản, điều nào của BLHS. Không cần phân tích quá sâu về tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm như bản luận tội.
+ Trong vụ án mà Viện kiểm sát truy tố với nhiều tội danh khác nhau thì phải phân tích làm rõ
+ Trong các vụ án có thiệt hại về tài sản thì phải nêu rõ giá trị tài sản bị thiệt hại, vật chứng của vụ án đã thu giữ, hình thức xử lý ra sao, các yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc thực hiện trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự như thế nào.
* Phần kết luận.
Phần này nêu những nội dung sau đây:
- Tổng hợp ngắn gọn hành vi phạm tội của bị can, tính chất, mức độ, hậu quả của vụ án, xác định vai trò của bị can trong vụ án (chú ý sắp xếp theo trật tự từ bị can có vai trò quan trọng và thực hiện hành vi nguy hiểm nhất đến các bị can có vai trò thấp hơn. Nếu bị can phạm nhiều tội thì phải phân tích, đánh giá từ tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm ít nghiêm trọng).
Sau đó có câu chuyển tiếp: “Như vậy có đủ căn cứ để xác định các bị can có lý lịch dưới đây đã phạm tội (các tội) như sau:”
- Nêu lý lịch của từng bị can (chú ý sắp xếp theo thứ tự từ bị can có vai trò chính đến bị can có vai trò thứ yếu). Phần này bao gồm những nội dung sau đây:
+ Họ và tên: Cần ghi đúng theo lý lịch tư pháp, chú ý tên đệm; nếu có tên gọi khác cũng cần ghi rõ.
+ Ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi đăng ký nhân khẩu thường trú, chỗ ở, nghề nghiệp, chức vụ, quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, trình độ văn hóa, họ và tên cha, mẹ (sóng hay chết), anh, chị, em ruột, vợ chồng, có mấy con, con lớn nhất bao nhiêu tuổi, con nhỏ nhất bao nhiêu tuổi.
Cần chú ý: Đối với bản thân bị can hoặc nhân thân của họ là những người đã có một quá trình cống hiến cho cách mạng, có thành tích đặc biệt trong học tập, sản xuất và chiến đấu, họ là thương binh, bệnh binh hoặc được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu, huân, huy chương cao quí hoặc các danh hiệu Nhà nước phong tặng khác cũng thể hiện đầy đủ; hoặc thân nhân của họ là thương binh, liệt sĩ hoặc có các danh hiệu Nhà nước phong tặng cũng thể hiện rõ như: Cán bộ hoạt động trước cách mạng tháng tám, Anh hùng lao động, Anh hùng các lực lượng vũ trang, Bà mẹ Việt nam anh hùng... Bởi vì những vấn đề này khi xem xét có thể được coi là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, có ý nghĩa khi lượng hình đối với những bị can đó.
+ Tiền sự: Ghi tiền sự được phản ánh qua trích lục tại tàng thư của công an.
+ Tiền án: Phải ghi rõ ngày xét xử, Tòa án xét xử, tội danh, điều, khoản của BLHS và hình phạt đã áp dụng (thời gian tạm giữ, tạm giam nếu có). Khẳng định hành vi phạm tội trên đây đã phạm tội gì, theo quy định tại điểm, khoản, điều nào của BLHS (lưu ý trích dẫn điều luật).
+ Trong vụ án nếu có bị can được đình chỉ hay tạm đình chỉ, tách ra để xử lý ở vụ án khác, không khởi tố để xử lý bằng hình thức khác thì cũng ghi rõ lý do cùng với căn cứ pháp lý. Cần chú ý là với trường hợp trong bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra đề nghị truy tố, nhưng Viện kiểm sát quyết định không truy tố hoặc tại bản kết luận điều tra Cơ quan điều tra đề nghị đình chỉ, nhưng Viện kiểm sát vẫn truy tố, với những trường hợp này cần phân tích rõ lý do có tính thuyết phục trong bản cáo trạng. Nếu bị can bị tạm giữ, tạm giam thì phải ghi rõ bị can bị tạm giữ, tạm giam từ ngày nào đến ngày nào để đề nghị Toà án khi quyết định hình phạt trừ thời gian tạm giữ, tạm giam vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.
* Phần quyết định.
- Sau khi nêu lý lịch bị can như trên, có viện dẫn tội danh cũng như các điểm, khoản, điều luật áp dụng truy tố; sẽ có câu chuyển tiếp như sau: “Vì lẽ đó”; hoặc “Vì các lẽ trên”: Quyết định truy tố ra trước Tòa án (nêu tên Tòa án) để xét xử bị can (hoặc các bị can – nêu họ và tên bị can) về tội hoặc các tội.
- Nếu nhiều bị can cùng bị truy tố về một tội danh và áp dụng điểm, khoản, điều luật giống nhau thì ghi tất cả họ và tên bị can đến tội danh, điểm, khoản, điều của BLHS.
- Kèm theo Cáo trạng có:
+ Hồ sơ vụ án gồm có bao nhiêu tập, bao nhiêu trang, đánh số thứ tự từ 01 đến trang cuối cùng của hồ sơ vụ án.
+ Bản thống kê vật chứng (nếu có).
+ Danh sách những người cần triệu tập ra trước Tòa án.
- Phần cuối của bản cáo trạng phải có chữ ký, họ và tên người ký và đóng dấu của VKSND nơi ban hành cáo trạng.
+ Về thẩm quyền ký cáo trạng: Nếu là Viện kiểm sát cấp huyện, cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì do Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng ký (nếu Phó Viện trưởng ký thì phải ghi rõ: KT. Viện trưởng, Phó Viện trưởng, chữ ký, họ tên). Ở VKSND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao ủy quyền cho Kiểm sát viên VKSND tối cao giữ chức vụ Vụ trưởng các Vụ 1; 1A; 1B; 1C và Vụ 2 ký cáo trạng (khi ký cần ghi rõ TUQ. Viện trưởng, Kiểm sát viên, chữ ký, họ và tên).
+ Cáo trạng sau khi ban hành phải được giao cho bị can; gửi VKSND cấp trên trực tiếp, Cơ quan điều tra, lưu hồ sơ vụ án, hồ sơ kiểm sát án hình sự, lưu trữ.
- Yêu cầu về hình thức của cáo trạng: Cáo trạng phải được lập theo đúng quy định tại Điều 167 BLTTHS. Bố cục của bản cáo trạng phải chặt chẽ, câu văn viết phải trong sáng, đúng ngữ pháp, không sai lỗi chính tả. Lý lẽ đưa ra khi lập luận phải chặt chẽ, sắc bén, có tính thuyết phục cao. Cáo trạng phải được đánh máy sạch sẽ, rõ ràng, đầy đủ dấu, không tẩy xóa, không viết thêm.
- Trong thời hạn 3 ngày kể từ khi ban hành cáo trạng, Viện kiểm sát phải thông báo cho người bào chữa biết; giao bản cáo trạng cho bị can (có biên bản giao nhận). Cũng trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày ban hành bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến Tòa án.
Khi xây dựng cáo trạng Kiểm sát viên cần lưu ý những vấn đề sau:
+ Xây dựng theo “Mẫu số 107 hướng dẫn viết cáo trạng kèm theo Quyết định số 07 ngày 02 tháng 01 năm 2008 của Viện trưởng VKSND tối cao”.
+ Trước khi trình Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được uỷ quyền ký ban hành cáo trạng, Kiểm sát viên cần đọc kỹ lại để chỉnh sửa lỗi chính tả, câu văn từ ngữ, tránh tình trạng cáo trạng đã được ban hành lại viết bổ sung, sửa chữa vào nội dung của bản cáo trạng.
+ Khi mô tả hành vi phạm tội của bị can (các bị can) Kiểm sát viên cần lưu ý chỉ mô tả vừa đủ để khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội của bị can (các bị can) là có tội, phạm vào điểm, khoản, điều nào của BLHS. Không nên phân tích qua sâu, quá rộng dễ lẫn sang nội dung của bản luận tội hoặc mô tả quá chi tiết, cụ thể dễ lẫn sang nội dung của bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra.
Việc chuyển vụ án để truy tố theo thẩm quyền; việc uỷ quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm
- Trong giai đoạn quyết định truy tố, nếu thấy vụ án không thuộc thẩm quyền truy tố của mình, Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra quyết định chuyển vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố theo quy định tại khoản 4 Điều 166 BLTTHS. Hồ sơ vụ án và hồ sơ kiểm sát điều tra phải được chuyển cho Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát nơi ra quyết định chuyển vụ án phải sao lục một bộ hồ sơ kiểm sát để lưu.
- Đối với những vụ án hình sự được thụ lý điều tra ở cấp tỉnh, sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, nếu thấy vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp huyện, thì Viện kiểm sát cấp tỉnh quyết định chuyển vụ án cho Viện kiểm sát cấp huyện có thẩm quyền làm cáo trạng truy tố.
- Đối với những vụ án hình sự được thụ lý điều tra ở cấp Trung ương, sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp tỉnh thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Viện kiểm sát quân sự Trung ương làm cáo trạng truy tố, uỷ quyền cho Viện kiểm sát cấp tỉnh thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm; nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp huyện thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự Trung ương quyết định chuyển vụ án về Viện kiểm sát cấp huyện có thẩm quyền làm cáo trạng truy tố và thông báo việc chuyển vụ án cho Viện kiểm sát cấp tỉnh nơi đó biết để theo dõi, chỉ đạo.
- Đối với những vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thụ lý có nhiều tình tiết phức tạp, án trọng điểm, vụ án mà dư luận quan tâm, Viện kiểm sát cấp trên phải yêu cầu Viện kiểm sát cấp dưới cử Kiểm sát viên tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra đề nghị truy tố ngay từ khi Cơ quan điều tra chuyển hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát cấp trên. Khi phát hiện có sai sót về thủ tục tố tụng hoặc thiếu chứng cứ quan trọng cần bổ sung, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cấp dưới kịp thời báo cáo với Viện kiểm sát cấp trên để có biện pháp khắc phục.
- Sau khi đã thụ lý vụ án, nếu thống nhất quan điểm truy tố với Viện kiểm sát cấp trên, thì Viện kiểm sát cấp dưới làm đầy đủ thủ tục để chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cùng cấp để xét xử; nếu có quan điểm truy tố khác thì báo cáo ngay với Viện kiểm sát cấp trên để Viện kiểm sát cấp trên kịp thời giải quyết.
Nếu thấy hồ sơ vụ án thuộc một trong các trường hợp cần điều tra bổ sung theo qui định của pháp luật thì ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát cấp trên để yêu cầu Cơ quan điều tra điều tra bổ sung.
- Đối với vụ án mà Toà án trả lại để điều tra bổ sung, Kiểm sát viên kiểm tra căn cứ ra quyết định trả hồ sơ của Toà án và báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra cùng cấp xem xét, xử lý. Nếu việc trả hồ sơ của Toà án có căn cứ thì làm văn bản nêu rõ lý do và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cấp trên để yêu cầu Cơ quan điều tra điều tra bổ sung; nếu việc trả hồ sơ của Toà án không có căn cứ thì chuyển hồ sơ lại cho Toà án và làm văn bản yêu cầu Toà án đưa vụ án ra xét xử.