ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Thứ ba, 31/12/2024 -00:55 AM

2.3. THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA

 | 

Đề ra yêu cầu điều tra

- Để thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên cần chủ động trao đổi với Điều tra viên được phân công điều tra vụ án về những vấn đề cần điều tra ngay từ khi kiểm sát việc khởi tố vụ án, khám nghiệm hiện trường và trong quá trình điều tra.

- Kiểm sát viên có thể đề ra yêu cầu điều tra bằng lời nói hoặc bằng văn bản trong quá trình trực tiếp kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám xét, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, đối chất, thực nghiệm điều tra. Đối với các trường hợp khác, khi đề ra yêu cầu điều tra, Kiểm sát viên phải có văn bản yêu cầu điều tra, nêu rõ những vấn đề cần điều tra để thu thập, củng cố chứng cứ; hoàn thiện các thủ tục tố tụng hoặc để làm rõ những tình tiết liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự được quy định tại Điều 63 BLTTHS.

- Đối với những vụ án trọng điểm, phức tạp, những vụ án được dư luận đặc biệt quan tâm và những trường hợp thấy có thể phải thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì Kiểm sát viên phải báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền trước khi ký văn bản yêu cầu điều tra. Văn bản yêu cầu điều tra phải được lưu vào hồ sơ kiểm sát một bản.

- Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ hoạt động điều tra của Điều tra viên, bảo đảm các yêu cầu điều tra được thực hiện đầy đủ. Khi thấy có vấn đề cần phải điều tra thêm, Kiểm sát viên kịp thời bổ sung yêu cầu điều tra; nếu Điều tra viên đề nghị, Kiểm sát viên có trách nhiệm giải thích rõ nội dung những yêu cầu điều tra. Trường hợp Điều tra viên không nhất trí thì Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, kiến nghị với Thủ trưởng Cơ quan điều tra giải quyết. Nếu do điều kiện khách quan mà Cơ quan điều tra không thực hiện được đầy đủ các yêu cầu điều tra thì phải nêu rõ lý do trong Bản kết luận điều tra vụ án.

Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường

- Kiểm sát viên phải kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường đối với tất cả các vụ việc mà Cơ quan điều tra tiến hành khám nghiệm. Đối với những vụ án gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, những vụ án giết người không quả tang hoặc những vụ án phức tạp thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng trực tiếp hoặc cùng Kiểm sát viên kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường.

- Trước khi khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên phải chủ động nắm tình hình, yêu cầu Điều tra viên thông báo sự việc xảy ra để tham gia ý kiến vào việc chuẩn bị khám nghiệm, chủ động yêu cầu Điều tra viên tiến hành khám nghiệm hiện trường và lập biên bản khám nghiệm hiện trường theo đúng quy định tại Điều 150 và Điều 154 BLTTHS.

- Nếu thấy người làm chứng, người bị hại hoặc bị can có thể chết hoặc mất khả năng khai báo, thì Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều tra viên lấy lời khai và ghi âm lời khai của họ.

- Trong quá trình khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động khám nghiệm. Kiểm sát viên có thể chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, xem xét tại chỗ dấu vết, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án, lấy lời khai và ghi âm lời khai của người bị hại, người làm chứng... Các tài liệu này được lưu trong hồ sơ kiểm sát.

Một số vấn đề Kiểm sát viên cần chú ý khi kiểm sát khám nghiệm hiện trường:

+ Kiểm sát viên phải nắm tình hình về hiện trường (qua thông báo của Điều tra viên, dư luận nhân dân xung quanh hiện trường); tự mình quan sát và phân tích các yếu tố để kiểm tra tình trạng hiện trường xem còn nguyên vẹn hay đã bị thay đổi, nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi ấy (các yếu tố con người, yếu tố thời tiết mưa nắng, bão lụt và động vật qua lại…); xác định phạm vi cần khám nghiệm và những loại dấu vết, đồ vật cần được xem xét, thu giữ.

+ Đề xuất yêu cầu khám nghiệm cho phù hợp trên cơ sở tư duy logic; nghiên cứu quy luật hình thành dấu vết để suy đoán có thể phát hiện được loại dấu vết nào, ở đâu; dấu vết hình thành đúng hay trái với quy luật thông thường, sự phù hợp hay mâu thuẫn giữa các dấu vết, vật chứng để yêu cầu thu thập đầy đủ dấu vết, tránh làm mất dấu vết hoặc làm thay đổi tình trạng hiện trường. Chú ý xác định có hay không việc tạo hiện trường giả sau khi gây án.

+ Yêu cầu Điều tra viên, kỹ thuật viên thực hiện đúng thủ tục tố tụng, phương pháp khám nghiệm trong việc vẽ sơ đồ, chụp ảnh; đo đạc theo đúng kích thước; tỷ lệ để mô tả đúng thực trạng hiện trường, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án.

+ Phối hợp cùng với Điều tra viên đánh giá dấu vết, vật chứng đã thu lượm được để đặt ra các giả thuyết điều tra, định hướng cho việc khám nghiệm, thu lượm dấu vết được đầy đủ, chính xác và công tác truy tìm vật chứng, truy bắt thủ phạm.

+ Chú ý xác định các dấu vết, đồ vật, các tài liệu quan trọng cần xem xét; những dấu vết, đồ vật, mẫu vật, tài liệu cần thu giữ, bảo quản nguyên trạng để phục vụ cho việc giám định và sử dụng làm chứng cứ.

+ Kiểm tra việc lấy lời khai những người biết về sự việc ngay tại hiện trường; trường hợp người làm chứng, người bị hại hoặc bị can có thể chết hoặc mất khả năng khai báo.

+ Kiểm sát viên phải ghi chép cẩn thận các tình tiết, đặc điểm các dấu vết quan trọng tại hiện tượng; vẽ sơ đồ đặc điểm tả những phần, vị trí quan trọng để có cơ sở, tư liệu đối chiếu kiểm tra biên bản, sơ đồ khám nghiệm hiện trường. Yêu cầu biên bản khám nghiệm hiện trường phải được lập, sơ đồ hiện trường phải được vẽ ngay tại nơi khám nghiệm.

+ Phối hợp cùng Điều tra viên phân tích, đánh giá đúng kết quả khám nghiệm; xem xét quyết định tiếp tục bảo vệ hiện trường để có thể khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại; xác định rõ những dấu vết, vật chứng cần được trưng cầu giám định; nội dung cần trưng cầu để phục vụ cho công tác điều tra, giải quyết vụ án.

+ Yêu cầu Điều tra viên và những người tham gia khám nghiệm giữ bí mật về kết quả khám nghiệm hiện trường, coi đó là bí mật điều tra không được tiết lộ, gây khó khăn cho công tác điều tra.

+ Sau khi khám nghiệm, Kiểm sát viên phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra về kết quả khám nghiệm hiện trường để có ý kiến chỉ đạo; trong khi kiểm sát việc khám nghiệm hoặc sau khi kết thúc khám nghiệm, nếu thấy việc khám nghiệm chưa đầy đủ, vi phạm các quy định tại Điều 150 và Điều 154 BLTTHS thì yêu cầu Điều tra viên khắc phục.

Kiểm sát việc khám nghiệm tử thi

- Kiểm sát viên phải kiểm sát việc khám nghiệm tử thi trong mọi trường hợp khám nghiệm tử thi theo sự phân công. Khi thấy cần thiết, Viện trưởng, Phó Viện trưởng có thể trực tiếp hoặc cùng Kiểm sát viên kiểm sát việc khám nghiệm tử thi.

- Kiểm sát viên phải chủ động yêu cầu Điều tra viên thực hiện đúng các quy định tại Điều 151 và Điều 154 BLTTHS về khám nghiệm tử thi và lập biên bản khám nghiệm tử thi.

- Trong quá trình khám nghiệm, Kiểm sát viên yêu cầu Hội đồng khám nghiệm xem xét đầy đủ các dấu vết, thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ nguyên nhân chết, tung tích của nạn nhân.

+ Trường hợp phải khai quật tử thi để khám nghiệm thì Kiểm sát viên phải kiểm tra về sự cần thiết khai quật; trình tự, thủ tục tiến hành khai quật theo đúng qui định của pháp luật tố tụng hình sự.

+ Sau khi khám nghiệm, Kiểm sát viên vào sổ thụ lý khám nghiệm; đồng thời báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra về kết quả khám nghiệm tử thi để có ý kiến chỉ đạo.

+ Nếu phát hiện việc khám nghiệm vi phạm các quy định tại Điều 151 và Điều 154 BLTTHS, Kiểm sát viên cần trao đổi với Điều tra viên khắc phục vi phạm hoặc báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục kịp thời.

Kiểm sát việc khám xét, thu giữ, tạm giữ vật chứng, kê biên tài sản

- Kiểm sát viên kiểm sát việc khám xét, thu giữ, tạm giữ vật chứng, kê biên tài sản phải yêu cầu Điều tra viên và những người tham gia khám xét chấp hành đúng các quy định tại các Điều 75, 140, 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 và 148 BLTTHS và các quy định pháp luật hiện hành.

- Đối với những trường hợp Cơ quan điều tra đề nghị phê chuẩn lệnh khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm; lệnh thu giữ thư tín, bưu kiện, bưu phẩm thì Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của các lệnh này và báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xử lý như sau:

+ Nếu đề nghị phê chuẩn của Cơ quan điều tra có đủ căn cứ thì ra quyết định phê chuẩn;

+ Nếu đề nghị phê chuẩn của Cơ quan điều tra không có căn cứ thì ra quyết định không phê chuẩn và nêu rõ lý do.

- Đối với những trường hợp không thể trì hoãn, lệnh khám xét hoặc thu giữ bưu kiện, bưu phẩm không có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, thì ngay sau khi nhận được văn bản thông báo việc khám xét, Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của các lệnh, biên bản khám xét để kịp thời phát hiện vi phạm, báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục; đồng thời, theo dõi và kiểm tra việc bảo quản tài sản, xử lý vật chứng, giải quyết xử lý kịp thời những vấn đề liên quan đến vật chứng, tài sản theo quy định tại Điều 75 và Điều 76 BLTTHS.

Kiểm sát việc lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án

- Để thu thập chứng cứ, xác định sự thật vụ án, Kiểm sát viên cần chủ động yêu cầu Điều tra viên kịp thời lấy lời khai của những người làm chứng và người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; không để sót những người làm chứng quan trọng mà họ trực tiếp nghe được, nhìn thấy hành vi phạm tội, bảo đảm cho họ thực hiện quyền đưa ra tài liệu, đồ vật và những yêu cầu của mình để làm rõ vụ án; nếu thấy cần thiết thì đồng thời với việc ghi lời khai, có thể tiến hành ghi âm, chụp ảnh, ghi hình.

- Khi kiểm sát việc lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên thực hiện đúng các quy định tại các Điều 133, 134, 135, 136 và 137 BLTTHS.

- Trong quá trình điều tra và sau khi kết thúc điều tra vụ án, Kiểm sát viên có thể triệu tập và lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án để kiểm tra chứng cứ trong các trường hợp lời khai của họ có mâu thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với những chứng cứ khác đã thu thập hoặc có nghi ngờ về tính trung thực, khách quan trong lời khai của họ. Nếu việc triệu tập để lấy lời khai thực hiện trước khi kết thúc điều tra thì Kiểm sát viên thông báo cho Điều tra viên thụ lý vụ án về thời gian, địa điểm tiến hành việc lấy lời khai của những người này trước khi lấy lời khai để phối hợp thực hiện.

- Kiểm sát viên phải thực hiện đúng quy định tại các Điều 133, 135, 136 và 137 BLTTHS trong việc triệu tập, lấy lời khai và ghi biên bản lời khai. Biên bản ghi lời khai do Kiểm sát viên tiến hành phải được đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu hồ sơ kiểm sát một bản.

Kiểm sát việc hỏi cung bị can

- Kiểm sát viên cần chủ động bàn với Điều tra viên kế hoạch và đề ra yêu cầu hỏi cung bị can ngay sau khi khởi tố bị can để làm rõ những vấn đề liên quan đến tội phạm đã khởi tố. Nếu thấy việc hỏi cung chưa đạt yêu cầu hoặc có vấn đề mới phát sinh thì Kiểm sát viên tiếp tục nêu yêu cầu để Điều tra viên hỏi cung làm rõ. Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc hỏi cung bị can và việc lập biên bản hỏi cung bị can của Điều tra viên, bảo đảm việc hỏi cung và lập biên bản hỏi cung bị can thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 131 và Điều 132 BLTTHS.

- Trong quá trình điều tra vụ án, khi có đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc thấy bị can kêu oan, lời khai của bị can trước sau không thống nhất, lúc nhận tội, lúc chối tội; bị can khiếu nại về việc điều tra; có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực trong lời khai bị can hoặc trường hợp bị can bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng thì Kiểm sát viên trực tiếp gặp, hỏi cung bị can. Trước khi hỏi cung, Kiểm sát viên phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra để xin ý kiến chỉ đạo và thông báo trước cho Điều tra viên biết.

- Sau khi kết thúc điều tra, nhận hồ sơ vụ án từ Cơ quan điều tra chuyển sang, Kiểm sát viên có thể trực tiếp hỏi cung bị can để kiểm tra tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Việc hỏi cung bị can và lập biên bản hỏi cung bị can do Kiểm sát viên tiến hành phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 131 và Điều 132 BLTTHS. Biên bản hỏi cung bị can của Kiểm sát viên phải được đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu hồ sơ kiểm sát một bản.

Kiểm sát việc đối chất và nhận dạng

-Trong quá trình kiểm sát điều tra, nếu thấy có mâu thuẫn trong lời khai giữa bị can, người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, hoặc khi cần thiết phải nhận dạng người hay đồ vật, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên tiến hành việc đối chất hoặc nhận dạng.

- Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc đối chất hoặc nhận dạng, bảo đảm các hoạt động này được thực hiện theo đúng các quy định tại Điều 138 và Điều 139 BLTTHS. Kiểm sát viên có thể trực tiếp hoặc phối hợp cùng Điều tra viên tiến hành việc đối chất. Khi trực tiếp tiến hành đối chất, Kiểm sát viên thông báo trước cho Điều tra viên biết.

- Sau khi kết thúc điều tra, Viện kiểm sát đã nhận hồ sơ vụ án, nếu thấy có mâu thuẫn trong lời khai của những người tham gia tố tụng thì Kiểm sát viên có thể tiến hành đối chất để làm rõ mà không phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung. Nếu thấy cần phải nhận dạng thì Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành việc nhận dạng.

- Việc đối chất và lập biên bản đối chất do Kiểm sát viên tiến hành phải được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 138BLTTHS. Biên bản đối chất phải được đưa vào hồ sơ vụ án và sao, lưu hồ sơ kiểm sát một bản.

Kiểm sát việc thực nghiệm điều tra

-Kiểm sát viên cần yêu cầu Điều tra viên thực nghiệm điều tra đối với những vụ án cần kiểm tra và xác minh những tài liệu, những tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án. Kiểm sát viên cần nghiên cứu nội dung, kế hoạch thực nghiệm điều tra; kiểm sát việc thực nghiệm điều tra, bảo đảm việc thực nghiệm điều tra và lập biên bản thực nghiệm điều tra tuân thủ đúng các quy định tại Điều 153 và Điều 154 BLTTHS.

- Kiểm sát viên có thể trực tiếp hoặc cùng Điều tra viên tiến hành việc thực nghiệm điều tra. Khi tiến hành thực nghiệm điều tra, Kiểm sát viên thông báo trước cho Điều tra viên biết.

Sau khi kết thúc điều tra, Viện kiểm sát đã nhận hồ sơ vụ án, qua nghiên cứu xét thấy cần phải thực nghiệm điều tra hoặc thực nghiệm điều tra lại để kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tình tiết vụ án thì Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để thực nghiệm điều tra hoặc thực nghiệm điều tra lại.

Trường hợp thấy việc thực nghiệm điều tra hoặc thực nghiệm điều tra lại đối với hành vi, tình huống đơn giản thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra tổ chức việc thực nghiệm điều tra. Việc thực nghiệm điều tra và lập biên bản thực nghiệm điều tra của Viện kiểm sát phải tuân thủ các quy định tại Điều 153 và Điều 154 BLTTHS. Biên bản thực nghiệm điều tra phải được đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu hồ sơ kiểm sát một bản.

Kiểm sát việc trưng cầu giám định và việc giám định

- Kiểm sát viên cần chủ động phát hiện các vấn đề cần phải giám định để báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành trưng cầu giám định. Kiểm sát viên phải kiểm sát việc trưng cầu giám định của Cơ quan điều tra và việc giám định của người giám định theo đúng quy định tại các Điều 155, 156, 157 và 158 BLTTHS.

Kiểm sát viên có quyền tham dự việc giám định đối với những trường hợp phức tạp, nhưng phải báo trước cho người giám định.

- Kiểm sát viên kiểm sát việc giám định nhằm bảo đảm nội dung trưng cầu giám định phải cụ thể, sát sự việc và những vấn đề cần kết luận; kết luận giám định phải giải đáp các nội dung của quyết định trưng cầu giám định.

- Nếu thấy nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc phát sinh những vấn đề mới liên quan đến các tình tiết vụ án đã được kết luận trước đó, thì Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra trưng cầu giám định bổ sung hoặc trực tiếp ra quyết định trưng cầu giám định bổ sung.

- Nếu thấy có nghi ngờ về kết quả giám định hoặc có mâu thuẫn trong các kết luận giám định về cùng một vấn đề thì Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định trưng cầu giám định lại hoặc trực tiếp ra quyết định trưng cầu giám định lại.

Kiểm sát viên phải kiểm sát để đảm bảo việc giám định bổ sung và giám định lại theo đúng quy định tại Điều 159 BLTTHS.

Kiểm sát việc dùng tiếng nói và chữ viết trong tố tụng hình sự

- Kiểm sát viên thực hiện các hoạt động kiểm sát để đảm bảo mọi hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành bằng tiếng Việt; người tham gia tố tụng dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình theo qui định của BLTTHS.

- Đối với người bị tạm giữ, bị can và những người tham gia tố tụng khác mà không sử dụng được tiếng Việt hoặc bị câm, bị điếc, Kiểm sát viên cần chủ động yêu cầu Điều tra viên bảo đảm cho họ có quyền thông qua người phiên dịch hoặc người biết dấu hiệu của người câm, người điếc để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.

Kiểm sát viên cần chủ động yêu cầu Điều tra viên giải thích quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch cũng như người biết dấu hiệu của người câm, người điếc theo qui định của pháp luật. Việc phiên dịch, diễn tả bằng tiếng việt dấu hiệu của người câm, người điếc phải được ghi biên bản theo quy định tại Điều 95 BLTTHS và đưa vào hồ sơ vụ án.

Kiểm sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng

- Kiểm sát viên cần chủ động yêu cầu Điều tra viên giải thích và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can và những người tham gia tố tụng khác trong hoạt động điều tra theo quy định tại Điều 62 BLTTHS. Việc giải thích quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng phải được ghi vào biên bản theo quy định tại Điều 95 BLTTHS và đưa vào hồ sơ vụ án.

- Trong quá trình kiểm sát điều tra, khi xác định bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS mà bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa, thì Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.

+ Trường hợp các tổ chức trên đã cử người bào chữa, nhưng bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu thay đổi người bào chữa thì Kiểm sát viên căn cứ vào khoản 2 và khoản 3 Điều 56 BLTTHS yêu cầu Điều tra viên báo cáo Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra xem xét, giải quyết.

+ Trường hợp các tổ chức trên đã cử người bào chữa, nhưng bị can và người đại diện hợp pháp của họ từ chối người bào chữa thì Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều tra viên lập biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án.

- Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ khi nhận được đề nghị tham gia tố tụng trong giai đoạn truy tố của người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, Kiểm sát viên xem xét các giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, việc bảo vệ quyền lợi của đương sự theo quy định của pháp luật và báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền cấp giấy chứng nhận người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự để họ tham gia tố tụng; trường hợp từ chối cấp giấy chứng nhận phải nêu rõ lý do và thông báo cho họ biết.

Kiểm sát việc nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra.

Khi nhận được quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, nếu thấy việc nhập hoặc tách vụ án hình sự không có căn cứ thì Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra quyết định huỷ bỏ quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự, bảo đảm việc nhập hoặc tách vụ án hình sự theo đúng quy định tại Điều 117 BLTTHS.

Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra

- Khi có tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa các Cơ quan điều tra thuộc các ngành khác nhau thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp nơi tội phạm xảy ra hoặc nơi phát hiện tội phạm quyết định.

- Khi có tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa các Cơ quan điều tra cùng ngành ở cấp nào thì Viện trưởng Viện kiểm sát cấp đó yêu cầu Thủ trưởng quản lý cùng cấp giải quyết.

- Trong trường hợp cần thiết, Cơ quan điều tra có thẩm quyền có quyền yêu cầu cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển ngay hồ sơ vụ án để trực tiếp điều tra. Khi có tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền nơi xảy ra vụ án quyết định.

Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án

- Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc lập hồ sơ vụ án hình sự của Điều tra viên, bảo đảm từng trang tài liệu trong hồ sơ bắt khẩn cấp, hồ sơ khởi tố vụ án, hồ sơ khởi tố bị can và các hồ sơ khác trong quá trình điều tra phải được đóng dấu bút lục của Cơ quan điều tra và kèm theo bảng kê đầy đủ tên tài liệu, số trang từng tài liệu và lưu trong hồ sơ vụ án. Nếu các hồ sơ gửi Viện kiểm sát xét phê chuẩn, thì sau khi kết thúc việc phê chuẩn, Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án phải đóng dấu bút lục của Viện kiểm sát vào các tài liệu đó và chuyển cho Cơ quan điều tra đưa vào hồ sơ vụ án. Trong quá trình khởi tố, điều tra, tài liệu của Cơ quan điều tra hoặc của Viện kiểm sát thu thập đều phải được đưa vào hồ sơ vụ án theo đúng trình tự tố tụng hình sự như khởi tố, điều tra vụ án. Sau khi kết thúc điều tra, các tài liệu trong hồ sơ do Cơ quan điều tra thống nhất đánh số thứ tự một lần và lập bảng thống kê đầy đủ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án từ 01 cho đến hết.

- Kiểm sát viên phải thực hiện một số yêu cầu sau khi kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của Điều tra viên:

+ Nâng cao chất lượng đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Việc này giúp cho Kiểm sát viên kiểm sát được các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

+ Trong quá trình kiểm sát việc thiết lập các tài liệu, thu thập chứng cứ của Điều tra viên thông qua việc kiểm sát nội dung và hình thức của các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì cần chú ý đến nội dung các biên bản được lập trong các hoạt động tố tụng… đảm bảo các tài liệu này phải được thiết lập theo đúng trình tự của quy định BLTTHS và đảm bảo tính chặt chẽ về nội dung.

+ Kiểm sát viên phải chú ý kiểm sát tính khách quan và sự phù hợp về thời gian, địa điểm trong các tài liệu do Điều tra viên thu thập, như: Thời gian, địa điểm hỏi cung hoặc ghi lời khai không được mâu thuẫn với nhau.

+ Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều tra viên cung cấp đầy đủ tài liệu khi xem xét phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo đúng quy định của Thông tư liên tịch số 05/2005 như các tài liệu trong hồ sơ xét phê chuẩn lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp; hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và phê chuẩn lệnh tạm giam trong trường hợp người đang bị tạm giữ bị khởi tố bị can; hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can (trường hợp không bị tạm giữ), quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can v.v.

+ Khi xét phê chuẩn các quyết định hoặc khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên nên phô tô những tài liệu quan trọng để lưu vào hồ sơ kiểm sát. Tuy nhiên, cũng cần tránh tình trạng lấy việc phô tô tất cả các tài liệu thay cho việc trích cứu tài liệu trong hồ sơ chính của vụ án khi lập hồ sơ kiểm sát.

+ Khi Kiểm sát viên tiến hành một số hoạt động điều tra ngay trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như: Hỏi cung bị can, ghi lời khai người làm chứng, đối chất, thực nghiệm điều tra... Những hoạt động này là một biện pháp nhằm kiểm sát quá trình lập hồ sơ của Điều tra viên, thẩm định lại các tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Đối với các tài liệu do Kiểm sát viên thu thập trong quá trình xét phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra như: Biên bản ghi lời khai người tạm giữ, biên bản hỏi cung bị can… phải được chuyển cho Cơ quan điều tra để đưa vào hồ sơ vụ án. Việc chuyển giao này phải được lập thành biên bản ghi rõ tên tài liệu, số trang tài liệu.

+ Khi kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của Điều tra viên còn cần phải kiểm sát việc tuân thủ các thủ tục tố tụng của các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án: Kiểm sát nội dung các quyết định tố tụng như: Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; quyết định phục hồi điều tra vụ án, bị can, quyết định tạm giữ và lệnh tạm giam… đảm bảo cho các quyết định này được thiết lập đúng theo các quy định của tố tụng hình sự; đúng mẫu ban hành của Bộ Công an; do người có thẩm quyền ra quyết định; đủ căn cứ ban hành quyết định; thể hiện rõ nội dung hành vi; điều khoản áp dụng, thậm chí cả con dấu, chữ ký, dấu chức danh cũng phải đảm bảo đúng quy định của tố tụng.

+ Kiểm sát viên cần đặc biệt chú ý kiểm sát nội dung hành vi bị khởi tố và điều luật áp dụng trong các quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can, vì vấn đề này trong thực tế Điều tra viên không để ý và thường có sai sót dẫn đến vi phạm tố tụng. Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tống đạt, giao nhận, thông báo các quyết định tố tụng tới các đối tượng có liên quan và những người tham gia tố tụng khác nhằm đảm bảo các quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan của những người tham gia tố tụng, như: Tống đạt các quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung Quyết định khởi tố bị can và các quyết định khác của Cơ quan điều tra, các quyết định phê chuẩn, không phê chuẩn của Viện kiểm sát tới bị can.

- Sau khi kết thúc điều tra, nhận hồ sơ vụ án, những tài liệu do Viện kiểm sát thu thập ở giai đoạn truy tố phải được đưa vào hồ sơ vụ án và đánh số thứ tự tiếp theo số tài liệu trong hồ sơ do Cơ quan điều tra chuyển sang; không được thay đổi thứ tự bút lục trong hồ sơ vụ án.

Giữ bí mật điều tra

Kiểm sát viên phải giữ bí mật điều tra; đồng thời, yêu cầu Điều tra viên giữ bí mật điều tra và yêu cầu người tham gia tố tụng, người chứng kiến không được tiết lộ bí mật điều tra. Nếu phát hiện cán bộ điều tra, Điều tra viên, người tham gia tố tụng, người chứng kiến tiết lộ bí mật điều tra, thì Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng xem xét, xử lý, kiến nghị xử lý theo qui định của pháp luật.

Việc chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền

- Trường hợp thấy vụ án không thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp mình, Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành các thủ tục để Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định chuyển vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền tiếp tục điều tra theo quy định tại Điều 116 BLTTHS.

Nếu phải chuyển vụ án ra ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu thì Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra cấp khu vực tiến hành các thủ tục để Viện kiểm sát cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có văn bản đề nghị Viện kiểm sát cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu ra quyết định chuyển vụ án. Nếu vụ án do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu đề nghị chuyển thì Viện kiểm sát cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu ra quyết định chuyển vụ án. Trong thời hạn ba ngày, kể từ khi nhận được đề nghị chuyển vụ án của Viện kiểm sát cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực hoặc của Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu thì Viện kiểm sát cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu phải ra quyết định chuyển vụ án.

Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định chuyển vụ án, Viện kiểm sát có thẩm quyền phải gửi quyết định chuyển vụ án cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực, Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra cấp quân khu đã đề nghị chuyển vụ án.

- Khi chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền, Viện kiểm sát nơi chuyển vụ án phải chuyển hồ sơ kiểm sát điều tra vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết. Hồ sơ kiểm sát điều tra vụ án chuyển cho Viện kiểm sát nơi tiếp nhận phải được đánh số bút lục của Viện kiểm sát nơi chuyển vụ án và lập danh mục thống kê các tài liệu kèm theo.

Kiểm sát việc chấp hành thời hạn điều tra, phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại

- Kiểm sát viên phải thường xuyên yêu cầu Điều tra viên chấp hành thời hạn điều tra, thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại theo quy định tại Điều 119 và Điều 121 BLTTHS.

- Trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án theo đề nghị của Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên phải kiểm tra các căn cứ để gia hạn điều tra và báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xem xét, quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra.

- Đối với trường hợp thuộc thẩm quyền gia hạn của Viện kiểm sát cấp trên, Viện kiểm sát cấp dưới phải có văn bản báo cáo rõ nội dung vụ án và lý do xin gia hạn do Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng ký, gửi cùng hồ sơ vụ án lên Viện kiểm sát cấp trên. Chậm nhất là năm ngày trước khi hết hạn điều tra, văn bản đề nghị gia hạn điều tra của Viện kiểm sát cấp dưới kèm theo hồ sơ vụ án phải có ở Viện kiểm sát cấp trên. Trước khi hết hạn điều tra, Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên phải xét, quyết định gia hạn hoặc không gia hạn thời hạn điều tra vụ án; nếu không gia hạn phải nêu rõ lý do và thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới biết.

Phát hiện và xử lý vi phạm

- Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án phải kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra để yêu cầu khắc phục, báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra. Nếu vi phạm của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm, thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền yêu cầu Cơ quan điều tra có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thì báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao giao cho Cục điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao khởi tố, điều tra theo thẩm quyền.

- Đối với các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ hoặc trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ. Đối với các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Thủ trưởng Cơ quan điều tra thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ.

- Đối với các quyết định của Cơ quan điều tra đã được Viện kiểm sát phê chuẩn mà phát hiện không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ.

Quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định của Cơ quan điều tra phải được gửi ngay cho Cơ quan điều tra để thực hiện.

- Trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự, Kiểm sát viên có trách nhiệm tổng hợp các vi phạm pháp luật của Cơ quan điều tra, các vi phạm pháp luật và những sơ hở thiếu sót trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, xã hội của các cơ quan, tổ chức có liên quan, báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra ra văn bản kiến nghị khắc phục, áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

 

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:31,916,572
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.140.195.8

    Thư viện ảnh