Ngày 28/11/2013, Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là sự kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng, tạo cơ sở hiến định để thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Cùng với việc tiếp tục kế thừa những giá trị to lớn của các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992, Hiến pháp sửa đổi lần này đã đổi mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến; thể chế hóa sâu sắc và toàn diện chủ trương đổi mới của Đảng trên các lĩnh vực; trong đó tư tưởng vì con người, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân được xác định là tư tưởng đổi mới chủ đạo của Hiến pháp, là mục tiêu hướng đến của các thiết chế trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những yêu cầu của Hiến pháp về dân chủ, pháp quyền, đề cao con người có ý nghĩa tác động trực tiếp đến các cơ quan tư pháp nói chung và Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) nói riêng, đòi hòi các thiết chế này phải thực sự đổi mới trong nhận thức, tổ chức và hoạt động. Để các nội dung của Hiến pháp nhanh chóng đi vào cuộc sống, tạo sự chuyển biến sâu sắc trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, ngành Kiểm sát nhân dân xác định những trọng tâm công tác cần tập trung triển khai tổ chức thực hiện, cụ thể là:
Đ/c Nguyễn Hòa Bình - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Viện trưởng Viện KSND tối cao
phát biểu chỉ đạo Hội nghị triển khai thi hành Hiến pháp
1. Tổ chức phổ biến, quán triệt nội dung của Hiến pháp và xây dựng các kế hoạch cụ thể triển khai thi hành Hiến pháp trong ngành Kiểm sát nhân dân
Công tác phổ biến, quán triệt Hiến pháp được xác định là một trong những hoạt động trọng tâm phải được triển khai khẩn trương, đồng bộ và khoa học để giúp cán bộ, Kiểm sát viên, công chức, viên chức toàn Ngành nhận thức đầy đủ, đúng đắn tinh thần và nội dung của Hiến pháp, những điểm sửa đổi và bổ sung mới để từ đó kịp thời chuyển tải tư tưởng, yêu cầu của Hiến pháp vào quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành.
Để thực hiện tốt công tác này, ngành Kiểm sát nhân dân tổ chức Hội nghị trực tuyến với sự tham gia của ba cấp kiểm sát, tạo điều kiện để cán bộ, Kiểm sát viên cả nước, trong đó có cán bộ, Kiểm sát viên ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo nắm được yêu cầu mới của Hiến pháp, vận dụng vào thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Các cơ quan thông tin, tuyên truyền của Ngành được giao trách nhiệm mở chuyên trang, chuyên mục để đăng tải các bài viết giới thiệu sâu sắc, toàn diện về Hiến pháp, nhất là các bài viết làm rõ những yêu cầu mới của Hiến pháp đối với các cơ quan tư pháp nói chung, Viện kiểm sát nhân dân nói riêng trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật. Việc rà soát, biên soạn lại hệ thống sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu giảng dạy về Hiến pháp của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong Ngành được chú trọng và phấn đấu hoàn thành trong năm 2014 để các sinh viên, học viên kịp thời lĩnh hội tinh thần và nội dung mới của Hiến pháp. Việc xây dựng các kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp được yêu cầu phải bảo đảm tính toàn diện, cụ thể, có lộ trình, có kiểm tra, đánh giá để việc thi hành Hiến pháp đúng mục đích, yêu cầu và đạt kết quả tốt.
2. Rà soát, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp để đưa vào các dự án văn bản pháp luật, trong đó tập trung cho hai dự án luật quan trọng mà VKSND tối cao đang được Quốc hội giao chủ trì soạn thảo.
Thực hiện Chương trình xây dựng luật của Quốc hội khóa XIII, VKSND tối cao được giao nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng Dự án Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) và Dự án Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi). Đây là hai dự án luật quan trọng, liên quan trục tiếp đến chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của VKSND; đến yêu cầu kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước và có tầm ảnh hường sâu sắc đến đời sống xã hội, kỷ cương phép nước, quyền con người, quyền công dân, thể hiện tính tôn nghiêm và giá trị văn minh của nền tư pháp.
Hiến pháp tiếp tục khẳng định Viện kiểm sát là hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước, thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; bổ sung một số nguyên tắc tiến bộ của hoạt động tố tụng tư pháp như nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, tiếp tục khẳng định và ghi nhận mới một số quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp v.v...
Để phù hợp với yêu cầu của Hiến pháp, việc xây dựng Dự án Luật tổ chức VKSND cần tập trung vào những nội dung chủ yếu sau: Một là,làm rõ bản chất, nội dung chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, từ đó quy định đầy đủ, toàn diện các lĩnh vực công tác của Viện kiểm sát để thực hiện tốt chức năng Hiến định. Hai là, cùng với việc tiếp tục khẳng định nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, bổ sung nguyên tắc Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp chỉ tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát. Ba là,xây dựng mô hình Viện kiểm sát bốn cấp thay cho mô hình ba cấp Viện kiểm sát hiện nay, quy định cụ thể thẩm quyền tố tụng và cơ cấu tổ chức của từng cấp kiểm sát. Bốn là,sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong các lĩnh vực tư pháp (hình sự, dân sự...) và các giai đoạn tố tụng để bảo đảm thực hiện tốt yêu cầu tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với điều tra, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, xây dựng Viện kiểm sát trở thành thiết chế hữu hiệu trong kiểm soát việc thực hiện quyền lực tư pháp như Cương lĩnh và Văn kiện Đại hội XI yêu cầu. Năm là,sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến thi tuyển, tuyển chọn, nhiệm kỳ, chế độ đãi ngộ, tuổi nghỉ hưu của Kiểm sát viên, đổi mới việc phân định các ngạch Kiểm sát viên nhằm khắc phục những hạn chế của pháp luật hiện hành, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên có trình độ cao, có khả năng xử lý tốt những vấn đề đặt ra qua thực tiền đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật. Sáu là,điều chỉnh một số quy định nhằm tăng sự chủ động, linh hoạt của ngành Kiểm sát nhân dân trong các vấn đề liên quan đến đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên, chế độ tiền lương, phụ cấp, cơ sở vật chất, kinh phí, đáp ứng yêu cầu thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao; quy định các điều kiện bảo đảm đối với sinh viên, học viên học tập trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Ngành nhằm thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ phát triển Ngành. Bảy là,quy định cụ thể các cơ chế giám sát đối với Viện kiểm sát nhằm bảo đảm mọi hoạt động của VKSND phải tuân thủ sự kiểm tra, giám sát của nhiều cơ chế, bao gồm cả cơ chế tự kiểm tra bên trong hệ thống và cơ chế trám sát từ bên ngoài.
Việc xây dựng Dự án Bộ luật tố tụng hình sự cần tập trung vào những định hướng lớn sau đây: Một là,bổ sung một số nguyên tắc phù hợp với yêu cầu mới của Hiến pháp. Hai là,quy định cụ thể căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn áp dụng các biện pháp tố tụng, đặc biệt các biện pháp liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân phải được nghiên cứu, quy định hết sức chặt chẽ và chỉ áp dụng trong những trường hợp thật cần thiết. Ba là,đổi mới chế định chứng cứ cho phù hợp với sự phát triển của khoa học pháp lý và khoa học công nghệ hiện đại, bổ sung các quy định nhằm tận dụng mọi nguồn chứng cứ, tăng giá trị chứng minh của các kết quả tố tụng, khắc phục cho được những bất cập trong thực tiễn đấu tranh chống tội phạm hiện nay. Bốn là,thiết kế lại hệ thống thẩm quyền tố tụng theo bốn cấp thay vì ba cấp tố tụng như hiện hành, đồng thời điều chỉnh một cách hợp lý thẩm quyền giữa các cấp nhằm giảm thiểu số lượng các vụ án do cơ quan tố tụng trung ương phải trực tiếp thụ lý, giải quyết để cấp này tập trung chủ yếu cho công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, tổng kết thực tiễn, kiểm tra, hướng dẫn cấp dưới. Năm là,để phù hợp với vị trí và trách nhiệm của Ngành được Hiến định là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, bảo đảm mọi tội phạm xảy ra phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, xử lý kịp thời, đúng pháp luật và thể chế hóa đầy đủ yêu cầu của Đảng “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với điều tra”,bổ sung các quy định để Viện kiểm sát nắm bắt đầy đủ, kịp thời các tố giác, tin báo về tội phạm; quy định cụ thể những trường hợp Viện kiểm sát phải trực tiếp xác minh tố giác, tin báo; những trường hợp Viện kiểm sát phải rút vụ án để trực tiếp điều tra; trách nhiệm của Viện kiểm sát phải chủ động ra quyết định chuyển vụ án để bảo đảm điều tra đúng thẩm quyền thay vì chờ Cơ quan điều tra đề nghị mới ra quyết định như hiện nay. Sáu là,để cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vừa được Hiến pháp ghi nhận, bổ sung các quy định giúp bị cáo và người bào chữa thực hiện tốt hơn quyền bào chữa; Viện kiểm sát phải có trách nhiệm cao hơn, chủ động hơn trong việc chứng minh quan điểm buộc tội của mình; điều chỉnh một số thẩm quyền tố tụng của Tòa án để phù hợp với yêu cầu tăng cường tranh tụng. Bảy là, tăng quyền, tăng trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán để họ chủ động hơn trong quá trình giải quyết vụ án. Tám là,đổi mới thủ tục giám đốc thẩm, quy định chặt chẽ căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm để đưa thủ tục này trở về vị trí là thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự, khắc phục tình trạng kháng nghị còn nhiều như hiện nay. Chín là,đổi mới các thủ tục tố tụng nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án hình sự, thực hiện nguyên tắc kịp thời, chính xác, tiết kiệm trong hoạt động tư pháp theo hướng mở rộng các vụ án được áp dụng thủ tục rút gọn; rà soát các quy định hiện hành để bảo đám mọi hoạt động tố tụng đều phải bị ràng buộc bởi căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn tiến hành; quy định chặt chẽ và rút ngắn một số thời hạn tố tụng. Mười là,rà soát các văn bản pháp luật hiện hành nhằm bảo đảm mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phải được điều chỉnh bởi Bộ luật tố tụng hình sự cho phù hợp với yêu cầu mới của Hiến pháp.
Để cụ thể hóa đầy đủ tinh thần và nội dung của Hiến pháp, thực hiện tốt trách nhiệm Quốc hội giao, việc nghiên cứu, xây dựng các dự án luật nêu trên phải được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng, huy động trí tuệ, trách nhiệm của các ngành, các cấp, các nhà khoa học đóng góp ý kiến cụ thể và thiết thực. Đối với những nội dung không thể quy định chi tiết trong luật thì cùng với việc chuẩn bị dự thảo, khẩn trương xây dựng văn bản hướng dẫn gửi kèm hồ sơ Dự án luật, bảo đảm Luật được ban hành sẽ kịp thời đi vào cuộc sống. Có kế hoạch cụ thể để đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ, Kiểm sát viên đáp ứng những thay đổi của pháp luật trong thời gian tới.
Đ/c Nguyễn Hòa Bình tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII
3. Tích cực phối hợp với các cơ quan liên quan xâv dựng các dự án văn bản pháp luật và chủ động đề xuất xây dựng văn bản huớng dẫn thi hành luật.
Cùng với nhiệm vụ chủ trì xây dựng Dự án Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) và Dự án Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi), Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn được Quốc hội giao trách nhiệm phối hợp với các cơ quan xây dựng các dự án luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân và một số dự án luật quan trọng khác. Việc sửa đổi các dự án luật này phải cụ thể hóa được các yêu cầu của Hiến pháp về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cụ thể hóa nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của các Dự án luật nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc chủ động rà soát, nghiên cứu, đề xuất cụ thể việc sửa đổi, bổ sung mới các quy định, đóng góp các ý kiến thiết thực cho việc xây dựng các văn bản pháp luật. Đồng thời, chỉ đạo các đơn vị trực thuộc rà soát toàn diện các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của VKSND tối cao nhằm phát hiện những quy định không còn phù hợp với Hiến pháp để kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ; chủ động đề xuất với các ngành ban hành văn bản quy định chi tiết huớng dẫn thi hành luật, pháp lệnh trong lĩnh vực tư pháp, đặc biệt tập trung xây dựng các văn bản nhằm hướng dẫn công dân thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ trong quá trình giải quyết vụ án, vụ việc.
4. Phải tổ chức công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật theo tinh thần chủ đạo của Hiến pháp, đó là đề cao, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đề cao nhân tố con người, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa là tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người chỉ rõ “Trong bàu trời không có gì qúv bằng nhân dân",“bao nhiêu lợi ích đều vì dân”(1);trong lĩnh vực tư pháp, người viết “Nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc nàv là vấn đề ở đời và làm người, ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ, bị áp bức”(2).Đảng ta khẳng định: “bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Nhà nước tôn trọng và bảo đám các quyền con người, quyềncông dân”(3).Hiến pháp sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua đã xác lập không gian hiến định mới để thực hiện đầy đủ hơn, sâu sắc hơn tư tưởng của Đảng và Bác Hồ về vấn đề này, theo đó, nhiều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được ghi nhận, sửa đổi, bổ sung mới trong Hiến pháp. Đối với lĩnh vực tư pháp, Hiến pháp có những điều chỉnh quan trọng như: Thứ nhất,hiến định một số nguyên tắc của tư pháp tiến bộ trên thế giới nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Theo đó, bổ sung và thể hiện một cách sâu sắc nguyên tắc suy đoán vô tội tại khoản 1 Điều 31 với nội dung “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật".Đây là nguyên tắc rất quan trọng, thể hiện tinh thần pháp chế, tính công minh và nhân đạo của nền tư pháp dân chủ. Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi phải có bước chuyển biến mạnh từ ý thức đến hành động của các cơ quan tố tụng. Kể từ thời điểm thụ lý vụ án cho đến trước khi có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật, cơ quan tố tụng không được đối xử với bị can, bị cáo như người có tội. Mọi nghi ngờ về lỗi của người bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án nếu không thể chứng minh, làm sáng tỏ bằng các biện pháp luật định thì phải suy đoán theo hướng có lợi cho họ. Bổ sung nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử(Điều 103), tạo bước đột phácho việc đổi mới tố tụng tư pháp Việt Nam. Nguyên tắc này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh cơ bản về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, chế định chứng cứ, cùng như các thủ tục tố tụng để bảo đảm cho tranh tụng được thực thi trong thực tiễn. Theo đó, Kiểm sát viên với tư cách là một bên trong tranh tụng cần phải trang bị đầy đủ hơn về kiến thức, kinh nghiệm, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm và sự chuẩn bị chu đáo cho mỗi phiên tòa. Bị can, bị cáo và người bào chữa phải được tạo những điều kiện tốt nhất để chứmg minh sự vô tội, giảm tội, giảm hình phạt; được bình đẳng trong việc thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ, tranh luận và trình bày quan điểm. Tranh tụng phải trở thành quyền và nghĩa vụ của tất cả các bên, mọi chứng cứ đưa ra phải được luận chứng và phản biện trên cơ sở quy định của pháp luật. Phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng và các chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa. Có như vậy, mới thực sự đạt được sự tâm phục, khâu phục, củng cố lòng tin của nhân dân vào công lý, sự công minh của pháp luật.
Thứ hai, bổ sung một số quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp cho phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên như: Quyền được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai (khoản 2 Điều 31). Đây là những yêu cầu rất cơ bản của một nền tư pháp dân chủ, đòi hỏi việc sửa đổi các luật tố tụng trong thời gian tới phải quy định cụ thể, minh bạch các thủ tục; rà soát để bảo đảm mọi hoạt động tố tụng đều phải bị ràng buộc bởi thời hạn nhằm tránh sự tùy tiện, lạm dụng, quy định chặt chẽ hơn một số thời hạn để đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án. Đồng thời, Hiến pháp mở rộng đối tượng được hướng quyền bào chữa không chỉ gồm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như hiện hành mà còn bao gồm người bị bắt (khoản 4 Điều 31), tạo cơ sở để họ thực hiện quyền bào chữa hoặc bảo vệ những quyền và lợi ích họp pháp ngay từ giai đoạn rất sớm của tố tụng.
Thứ ba, cụ thể hóa nguyên tắc mới của Hiến pháp “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khẻc cộng đông. Hiến pháp quy định rõ mọi biện pháp tố tụng có tính chất hạn chế quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp như: bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác (Điều 21), khám xét chỗ ở (Điều 22)... phải do luậtđịnh thay vì giao cho pháp luậtquy định như Hiến pháp năm 1992. Đây là những yêu cầu rất căn bản và quan trọng, thể hiện tư tưởng pháp quyền, đề cao nhân dân, phòng ngừa sự cắt xén, xâm phạm quyền con người, quyền công dân từ phía các cơ quan nhà nước. Thực hiện yêu cầu này, đòi hỏi phải khẩn trương rà soát hệ thống các văn bản pháp luật hướng dẫn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật để kịp thời báo cáo Quốc hội ban hành hoặc thu hút vào các đạo luật liên quan.
Những điều chỉnh nêu trên của Hiến pháp đã đặt trách nhiệm rất cao với các cơ quan tư pháp, yêu cầu phải tổ chức công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật theo tinh thần mới. Hoạt động tư pháp không chỉ dừng ở mục tiêu phát hiện, xử lý tội phạm và vi phạm pháp luật mà phải tôn trọng con người, vì sự phát triển của con người, đề cao dân chủ và phải đứng trên quan điểm đó để chứng minh tội phạm và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Trong trường hợp đặc biệt, cần phải hạn chế quyền con người, quyền công dân nhất thiết phải xem xét cẩn trọng, bảo đảm đáp ứng đầy đủ các căn cứ, điều kiện luật định và tiến hành theo một thủ tục chặt chẽ. Tuyệt đối tránh việc lạm dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân thay cho các biện pháp thu thập chứng cứ khách quan. Bảo đảm dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân phải trở thành mục tiêu và động lực hướng tới của các cơ quan tư pháp nói chung, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân. Đây chính là thước đo sự tiến bộ của nền tư pháp.
5. Xác định rõ trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp chính là nhằm bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội.
Thực hành quyền công tố hiểu một cách khái quát là hoạt động nhằm phát hiện tội phạm, truy tố người phạm tội ra Tòa, yêu cầu Tòa án xét xử và áp dụng hình phạt đối với họ. Kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm kiểm sát các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bổ trợ tư pháp... Kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước nói chung và thực hiện quyền lực trong lĩnh vực tư pháp nói riêng ở Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hoạt động có tính tất yếu, khách quan, xuất phát từ nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực đã được khẳng định trong Hiến pháp. Chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp thực chất là để bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm mọi tội phạm và vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện, xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm vàngười phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm việc giải quyết các vụ án đúng pháp luật, nghiêm minh.
Kết quả lấy kiến nhân dân, các ngành, các cấp, ý kiến của các đại biểu Quốc hội về Hiến pháp đều khẳng định trong điều kiện cụ thể của nước ta cần thiết phải duy trì Viện kiểm sát là một hệ thống cơ quan độc lập, có chức năng thực hành quyền côngtố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp theo đúng nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước “Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”(4). Đảng, Quốc hội và nhân dân cần một thiết chế giám sát độc lập, hoạt động trực tiếp, thường xuyên, có hiệu quả cao như Viện kiểm sát. Hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Kiểm sát nhân dân đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ Hiến pháp và pháp luật. Trên cơ sở đó, Điều 107 Hiến pháp sửa đổi tiếp tục khẳng định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.
Triển khai thi hành Hiến pháp trong thời gian tới, mỗi cán bộ, Kiểm sát viên và từng cấp kiểm sát phải thấm nhuần và thực thi đầy đủ Hiến pháp. Tập trung kiện toàn cả về tổ chức bộ máy và cán bộ, xây dựng cho được bộ máy làm việc khoa học với đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên thực sự vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm. Thực hiện có hiệu quả Đề án đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức nhằm bảo đảm mọi cán bộ, Kiểm sát viên đều phải được giao nhiệm vụ rõ ràng; lấy chấtlượnghiệu quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo chính để đánh giá cán bộ; hoàn thiện tiêu chí và cơ chế kiểm soát thực thi công vụ. Huy động mọi nguồn lực cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm tạo sự chuyển biến về chất, phục vụ sự nghiệp phát triển lâu dài của Ngành. Trước hết, tập trung khắc phục có kết quả những hạn chế, thiếu sót trong từng khâu công tác; đối với những vấn đề do vướng mắc về chính sách, pháp luật phải tiến hành tổng kết và báo cáo các cơ quan có thẩm quyền giải quyết kịp thời.
Cùng với việc tiếp tục khẳng định Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, Hiến pháp đã bổ sung quy định “Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chi đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân".Quy định này một mặt đáp ứng yêu cầu tăng tính độc lập cho Kiểm sát viên, ngăn ngừa sự can thiệp trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức vào hoạt động thực thi công vụ của Kiểm sát viên, đồng thời phù hợp với nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành Kiểm sát, bão đảm sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát mỗi cấp và sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao đối với toàn hệ thống. Để cụ thể hóa yêu cầu mới của Hiến pháp, cần mạnh dạn thực hiện cơ chế phân cấp thẩm quyền tố tụng nhằm tăng sự chủ động và đề cao trách nhiệm cho Kiểm sát viên khi thực thi công vụ, góp phần đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án. Đồng thời, xem đây là bước tiến quan trọng, tạo cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất sửa đổi, bổ sung trong Dự án Luật tổ chức VKSND và Dự án Bộ luật tố tụng hình sự.
Triển khai thi hành Hiến pháp được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong năm 2014 và các năm tiếp theo. Chúng ta tin tưởng rằng, với sự vào cuộc tích cực và trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đoàn thể nhân dân, Hiến pháp chắc chắn sẽ nhanh chóng đi vào cuộc sống, phát huy tác dụng tích cực và tạo sự chuyển biến sâu rộng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, là cơ sở quan trọng để sự nghiệp cải cách tư pháp nước nhà tiếp tục thu được những kết quả lớn hơn nữa.
Đ/c Nguyễn Hòa Bình - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Viện trưởng Viện KSND tối cao
---------------------------------------------
(1)Hồ Chí Minh toàn tập, tập VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 1996, tr276.
(2)Hồ Chi Minh, Nhà nước và Pháp luật, tập III, Nxb Lao động, 1971, tr. 138.
(3)Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Cương lĩnh xây đựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2011, tr 85.
(4)Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2011, tr 85