.

Thứ ba, 23/07/2024 -05:17 AM

Đơn xin ly hôn chưa đủ điều kiện để thụ lý nhưng Tòa vẫn giải quyết cho ly hôn.

 | 

Ngày 12/6/2014 Tòa án tỉnh B lập biên bản nhận của anh L (anh trai chị H) đơn khởi kiện xin ly hôn của chị H ghi ở Đảo Síp; và một số tài liệu kèm theo gồm: Bản phô tô Hộ chiếu số B2998637 do Cục QLXNC cấp ngày 21/4/2009 cho chị H; Giấy ủy quyền của chị H cho anh L có chữ, dấu bằng tiếng nước ngoài; văn bản dịch chữ bằng tiếng nước ngoài ghi trong giấy ủy quyền ra tiếng Việt Nam.

Các tài liệu do anh L giao nộp cho Tòa án có nội dung thể hiện, chị H có hộ khẩu thường trú tại xóm Đ, xã S, thành phố B, tỉnh B; có  hộ chiếu số B2998637 do Cục quản lý xuất nhập cảnh cấp ngày 21/4/2009; hiện đang ở tại số 7 TRIKOUPI, 1015 NIYÔSIA, CYPRUS. Chị Hkết hôn với anh T năm 1992; có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện Y, tỉnh B; trong quá trình chung sống giữa chị và anh T thường xảy ra mâu thuẫn; từ năm 2009 đến nay chị đi lao động tại Cộng hòa Séc; do tình cảm vợ chồng không còn chị H khởi kiện đề nghị Tòa án tỉnh B giải quyết cho chị được ly hôn với anh T. Chị H không thể về nước nên chị xin giải quyết ly hôn vắng mặt và chị ủy quyền cho anh L (anh trai chị) thay mặt chị dự phiên tòa giải quyết việc ly hôn, chia tài sản tại Tòa án tỉnh B.

Anh T trình bày, từ đầu năm 1999 chị H đã bỏ nhà đi không thư từ điện thoại về; ban đầu anh T yêu cầu chị Hoa về nước để giải quyết việc ly hôn; anh không nhất trí ly hôn; tại phiên tòa sơ thẩm anh T trình bày, hiện nay anh không biết chị H ở đâu; chị H xin ly hôn, anh đồng ý.

Anh L trình bày, anh đồng ý nhận ủy quyền của chị H.

Ngày 16/6/2014 Tòa án tỉnh B đã thụ lý vụ án "Tranh chấp hôn nhân gia đình" giữa nguyên đơn là chị H; bị đơn là anh T; người đại diện theo ủy quyền của chị H là anh L; và ngày 8/9/2014 đã mở phiên tòa xét xử vụ án và ban hành bản án sơ thẩm  giải quyết cho chị H được ly hôn anh T.

Qua xem xét việc Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án thấy rằng: Chị H hiện không có mặt tại Việt Nam; không trực tiếp đến Tòa án nộp đơn khởi kiện xin ly hôn và các tài liệu kèm theo mà do anh L giao nộp cho Tòa án. Chị H trình bày hiện chị đang ở Cộng Hòa Síp nhưng đơn xin ly hôn; giấy ủy quyền của chị H cho anh L đều không có chứng thực của cơ quan đại diện Việt Nam tại Cộng Hòa Síp. Hộ chiếu số B2998637 do Cục quản lý xuất nhập cảnh cấp cho chị H do anh L nộp cho Tòa án là bản phô tô không có công chứng, chứng thực hợp pháp.

Giấy ủy quyền của chị H cho anh L thay mặt chị dự phiên tòa giải quyết việc ly hôn và giải quyết việc chia tài sản được cán bộ chứng thực tại NICOSIA-SÍP chứng thực chữ ký của chị H. Nhưng tài liệu này chưa được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hợp pháp hóa lãnh sự (theo danh sách các nước và loại giấy tờ được miễn hợp pháp hóa lãnh sự khi sử dụng tại Việt Nam kể từ 15/5/2013 thì Cộng hòa Síp và giấy tờ có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền của Cộng hòa Síp không thuộc các nước và loại giấy tờ được miễn hợp pháp hóa lãnh sự khi sử dụng tại Viện Nam). Nên giấy ủy quyền của chị H cho anh L không đủ điều kiện để được Tòa án Việt Nam công nhận theo như quy định tại Điều 418 Bộ luật tố tụng dân sự.   

Theo bản phô tô hộ chiếu của chị H thì hộ chiếu của chị Hoa có số B2998637 ; nhưng theo văn bản dịch chữ bằng tiếng nước ngoài ghi trong giấy ủy quyền của chị H ra tiếng Việt Nam thì cán bộ chứng thực tại NICOSIA-SÍP lại xác nhận chữ ký của chị H có số hộ chiếu B2999637.

Chị H không có bản tự khai. Đơn ly hôn; đơn trình bày ghi là của chị H có trong hồ sơ vụ án là bản in từ máy Fax không có bản gốc.

Do vậy, với những tài liệu chứng cứ trên chưa đủ căn cứ để xác định đơn xin ly hôn, giấy ủy quyền ghi là của chị H do anh L nộp cho Tòa án là của chị H có hộ khẩu thường trú tại xóm Đ, xã S, thành phố B, tỉnh B; chưa đủ căn cứ xác định chị H hiện đang ở Cộng Hòa Síp; chị H không có bản tự khai. Nên đơn khởi kiện của chị H chưa đủ điều kiện để Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật. Việc Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án theo yêu cầu khởi kiện của chị H là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và nội dung được quy định tại khoản 1 Điều 83; khoản 1 Điều 86; Điều 164, 165 Bộ luật tố tụng dân sự.

Để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật, Viện trưởng Viện KSND tỉnh B đã ban hành quyết định kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án dân sự sơ thẩm giải quyết vụ án nêu trên của Tòa án nhân dân tỉnh B. Đề nghị, Tòa án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh B và đình chỉ giải quyết vụ án. Tòa án nhân dân tối cao đã xét xử phúc thẩm chấp nhận quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện KSND tỉnh B./.

 

               Lương Thanh Hảo

Phòng 5 VKSND tỉnh Bắc Giang

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:28,520,095
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:18.223.195.20

    Thư viện ảnh