ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Viện kiểm sát nhân dân thành phố ứng dụng CNTT trong số hoá án hình sự nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả tranh tụng

 | 

Trong thời gian qua, Viện KSND thành phố đã tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đó đã thực hiện số hóa hồ sơ các vụ án hình sự và trình chiếu các tài liệu, chứng cứ đã được số hoá tại phiên toà để nâng cao chất lượng, hiệu quả tranh tụng khi xét xử.

Thực hiện hướng dẫn, chỉ đạo của VKSND tỉnh Bắc Giang và kế hoạch công tác của đơn vị, Viện KSND thành phố đã tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự và đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và nâng cao chất lượng, hiệu quả tranh tụng khi xét xử các vụ án hình sự.

Trong 6 tháng đầu năm công tác 2025, Viện KSND thành phố đãthực hiện việc số hoá 176 vụ/330 bị can, đạt 100% các vụ án đã truy tố; việc số hoá tập trung các tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa trong việc chứng minh hành vi phạm tội, vai trò của các bị can trong vụ án đồng phạm, hậu quả của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi phạm tội; về vấn đề giải quyết trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự; về những vi phạm, thiếu sót trong quá trình điều tra vụ án…

Ngoài ra, đơn vị đã thực hiện số hoá 100%  hồ sơ các vụ án hình sự do Cơ quan điều tra tạm đình chỉ điều tra; số hoá 100% hồ sơ, tài liệu các vụ việc do Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm và không khởi tố vụ án hình sự. Toàn bộ số hồ sơ này được cập nhật vào phần mềm quản lý dữ liệu hồ sơ số hóa, được phân loại, scan tài liệu theo đúng quy định.

VKSND thành phố Bắc Giang quán triệt việc thực hiện số hoá hồ sơ theo chỉ tiêu công tác năm 2025

Thực hiện số hóa 100%  các tài liệu trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự (gồm Cáo trạng, báo cáo án, dự thảo đề cương xét hỏi, dự kiến tình huống sẽ cần tranh luận, dự thảo luận tội...). Trong đó, Kiểm sát viên thực hiện báo cáo án bằng “Sơ đồ tư duy” đối với tất cả các vụ án có tính chất phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, các vụ án kinh tế, chức vụ hoặc được cấp ủy theo dõi, chỉ đạo. Thông qua việc áp dụng cáo án bằng “Sơ đồ tư duy” giúp cho Kiểm sát viên nâng cao kỹ năng tổng hợp, đánh giá chứng cứ đảm bảo đầy đủ, khách quan, toàn diện từ đó đề xuất áp dụng căn cứ pháp luật và biện pháp giải quyết đảm bảo đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm.

Bên cạnh đó, việc số hóa hồ sơ vụ án, vụ việc đã giúp cho công tác quản lý, chỉ đạo giải quyết án của thủ trưởng đơn vị hiệu quả, kịp thời hơn. Khi duyệt án hoặc kiểm tra hồ sơ, lãnh đạo không cần yêu cầu kiểm sát viên chuyển tài liệu lên mà có thể truy cập trực tiếp trên phần mềm quản lý dữ liệu. Các hồ sơ kiểm sát trình chiếu tài liệu, chứng cứ tại phiên tòa được thiết lập đều có đề cương, dự kiến tình huống trình chiếu…

Thực tiễn cho thấy thông qua số hóa hồ sơ vụ án và phối hợp với Toà án để trình chiếu các tài liệu đã được số hoá tại phiên toà đã giúp cho Kiểm sát viên thực hiện tốt hơn việc tranh tụng tại các phiên tòa hình sự. Trong 6 tháng đầu năm 2025, các Kiểm sát viên đã sử dụng hồ sơ số hóa để trình chiếu tài liệu, chứng cứ tại 21 phiên tòa hình sự. Đây là những vụ án có tính chất phức tạp, có bị can, bị cáo chối tội hoặc vụ án đồng phạm có nhiều đối tượng tham gia… Kiểm sát viên khi xét hỏi, tranh tụng đã kết hợp trình chiếu, phân tích chứng cứ dựa trên các tài liệu, chứng cứ đã số hóa và trình chiếu tại phiên toà nên đã góp phần nâng cao hiệu quả tranh tụng, bảo vệ được quan điểm truy tố, bảo đảm có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Thực tế cho thấy, trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự có một số bị can, bị cáo không nhận tội. Tại phiên toà, Kiểm sát viên đã trình chiếu các tài liệu, chứng cứ cùng lập luận cơ sở pháp lý rõ ràng nên đã bảo vệ quan điểm buộc tội được hội đồng xét xử chấp nhận, buộc bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội. Điển hình là một số vụ án sau:

Vụ Ngô Cảnh V cùng đồng phạm bị truy tố về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự. Trong vụ án có bị cáo Thân Văn T giữ vai trò đồng phạm. Quá trình điều tra, T không thừa nhận hành vi phạm tội (không thực hiện hành vi đưa trái phép chất ma tuý vào cơ thể người khác). Tại phiên toà, Kiểm sát viên trình chiếu tài liệu số hoá như biên bản khám nghiệm hiện trường, kết quả thực nghiệm điều tra, biên bản ghi lời khai, hỏi cung; bản ảnh vật chứng, kết quả xét nghiệm chất ma tuý... thì T thay đổi lời khai và thừa nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng truy tố.

Kiểm sát viên báo cáo án bằng sơ đồ tư duy và dự kiến các tài liệu cần trình chiếu trước phiên toà

Vụ án Nguyễn Thị V và một số đối tượng bị khởi tố về tội “Gây rối trật tự công cộng”. V và một số đối tượng có lời nói lăng mạ, xúc phạm lực lượng làm nhiệm vụ, không tuân thủ hướng dẫn của lực lượng chức năng; tụ tập tại khu vực trụ sở cơ quan Nhà nước rồi quay video phát trực tiếp trên mạng xã hội facebook gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an. Quá trình giải quyết vụ án, một số bị cáo luôn có thái độ chống đối, không làm việc với cơ quan chức năng và cho rằng mình không phạm tội. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, Kiểm sát viên đã trình chiếu tài liệu, chứng cứ, video hình ảnh có âm thanh ghi lại toàn bộ hành vi của các bị cáo. Trước những hồ sơ đã được số hóa, hội đồng xét xử đã tuyên phạt bị cáo V 01 năm 03 tháng tù. Bị cáo kháng cáo kêu oan. Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định các tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo đã đầy đủ, không oan nên không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên mức hình phạt.

Vụ án Nguyễn Văn A bị truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Khi bị Công an phường Mỹ Độ bắt giữ, A đã lấy 03 gói  ma túy đang cất giấu ở túi áo khoác cho vào miệng rồi để xe lại bỏ chạy thì bị lực lượng công an giữ lại. A đã nhè 03 gói nilon đựng ma tuý đang ngậm ở trong miệng ra và rơi xuống nền đất. Kết quả giám định là ma tuý có khối lượng 0,297 gam, loại Heroine. Quá trình điều tra, A không thừa nhận số ma tuý này là của mình. VKS thành phố đã truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” theo khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Kiểm sát viên đã xét hỏi, tranh tụng kết hợp với trình chiếu tài liệu số hoá tại phiên toà (kết luận giám định ADN, biên bản niêm phong vật chứng, bản tự khai ban đầu, lời khai của những người trực tiếp bắt giữ…) và khẳng định việc truy tố bị cáo là có căn cứ, không oan, hội đồng xét xử đã tuyên phạt bị cáo 07 năm tù. Sau phiên tòa sơ thẩm, bị cáo kháng cáo kêu oan; hội đồng xét xử phúc thẩm kết luận bị cáo không oan và giữ nguyên mức hình phạt mà Toà án sơ thẩm đã quyết định.

Để nâng cao hơn nữa hiệu quả việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thời gian tới, VKSND thành phố xác định thực hiện những giải pháp sau:

Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 03/CT-VKSTC ngày 17/5/2021 của Viện trưởng Viện KSND tối cao về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành Kiểm sát nhân dân; quá trình thực hiện cần gắn với các nội dung theo Kế hoạch công tác của VKSND tỉnh Bắc Giang và Đề án số 02-ĐA/BCĐ ngày 20/7/2021 của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh. Xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng, thực hiện thường xuyên.

Xây dựng kế hoạch, phân công nhiệm vụ cụ thể cho lãnh đạo, Kiểm sát viên; tăng cường phối hợp với Toà án thành phố tổ chức các phiên toà rút kinh nghiệm hình sự, dân sự để đánh giá kết quả thực hiện đồng thời rút kinh nghiệm những hạn chế, tồn tại để khắc phục.

Mở rộng, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, số hoá hồ sơ, báo cáo án bằng “Sơ đồ tư duy” trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại nhất là các vụ án phức tạp có liên quan đến giải quyết thừa kế, tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng vay tài sản…đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác trong giai đoạn hiện nay./.

Lê Đình Duy- VKSND thành phố Bắc Giang

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:36,908,321
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:216.73.216.20