ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Chủ nhật, 20/10/2024 -05:22 AM

Phòng 10 – Viện KSND tỉnh Bắc Giang tham mưu Lãnh đạo Viện KSND tỉnh Bắc Giang kháng nghị trên cấp đối với 01 bản án KDTM sơ thẩm có vi phạm

 | 

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các khâu công tác đột phá theo Chỉ thị số 01/CT-VKSTC ngày 18/12/2023 của Viện trưởng VKSND tối cao là: “Công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động; đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin” và thực hiện Kế hoạch công tác năm 2024, thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang giải quyết vụ án kinh doanh thương mại giữa nguyên đơn là Công ty thuê tài chính M thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn VN, bị đơn là Doanh nghiệp tư nhân H. Viện KSND tỉnh Bắc Giang thấy rằng, Tòa án có vi phạm, thiếu sót trong việc giải quyết vụ án, cụ thể như sau:

Ngày 29/5/2002, Công ty cho thuê tài chính M thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (viết tắt là Công ty cho thuê tài chính M) và Doanh nghiệp tư nhân H do bà Nguyễn Thị B chủ doanh nghiệp ký kết hợp đồng cho thuê tài chính số 261/HĐCT/ALCI, trong đó có nội dung: Công ty cho thuê tài chính M cho Doanh nghiệp tư nhân H thuê là 01 máy xúc đào mang nhãn hiệu FIAT-HITACHI. Tổng giá trị tài sản cho thuê là 450.070.000 đồng. Thời hạn thuê là 36 kỳ (01 kỳ tương ứng với 01 tháng). Ngày nhận nợ là ngày 05/6/2002, ngày trả nợ cuối cùng là ngày 20/5/2005. Lãi suất cho thuê là 0,9%/tháng tính bằng 30 ngày. Trường hợp để phát sinh nợ quá hạn, lãi suất cho thuê quá hạn thu bằng 150% lãi suất cho thuê trong hạn. Mục đích sử dụng tài sản thuê là để phục vụ cho hoạt động kinh doanh hợp pháp của Doanh nghiệp H. Doanh nghiệp tư nhân H đặt cọc số tiền là 100.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng Doanh nghiệp H đã vi phạm hợp đồng cho thuê tài chính và phát sinh nợ quá hạn vì vậy Công ty cho thuê tài chính M yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Doanh nghiệp tư nhân H phải trả tiền nợ gốc và lãi.

Bị đơn, đồng ý với các nội dung nêu trong hợp đồng số 261/HĐCT ngày 29/5/2002 và trình bày của nguyên đơn về quá trình thực hiện hợp đồng nhưng không đồng ý yêu cầu khởi kiện vì đã trả hết nợ, tuy nhiên bị đơn không xuất trình được chứng cứ chứng minh việc trả tiền.

Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:

 Áp dụngĐiều 90 và Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 471 và Điều 474 Bộ luật dân sự, Điều 30, 35, khoản 1 Điều 147, 150, 227, 228, 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

Chấp nhậnmột phầnyêu cầu khởi kiện của Công ty cho thuê tài chính M buộc Doanh nghiệp tư nhân H do bà Nguyễn Thị B đại diện phải thanh toán tổng số tiền là tổng sốtiền là 328.455.267 đồng, trong đó: nợ gốc là 77.190.260 đồng, nợ lãi trong hạn là 2.803.747 đồng và nợ lãi quá hạn là 248.461.260 đồng.…

Ngoài ra bản án còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí và nêu quyền kháng cáo của các đương sự...

Xét thấy: Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện, tỉnh Bắc Giang giải quyết có vi phạm như sau: 

* Xác định sai tư cách tham gia tố tụng của bị đơn

Khoản 3 Điều 143 Luật doanh nghiệp 2005, khoản 1 Điều 183 Luật doanh nghiệp năm 2014 và khoản 1 Điều 188 Luật doanh nghiệp năm 2020 thì:

“1. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”

Khoản 3 Điều 185 Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định:

“3. Chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Tòa án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp”

Khoản 3 Điều 190 Luật doanh nghiệp năm 2020 quy định:

“3. Chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật, đại diện cho doanh nghiệp tư nhân với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án, đại diện cho doanh nghiệp tư nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”

Hồ sơ vụ án thể hiện, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp tư nhân mã số 2400284046 đăng ký lần đầu năm 2001, đăng ký thay đổi lần 1 ngày 25/9/2013 do Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Giang cấp cho tên doanh nghiệp là: Doanh nghiệp tư nhân H, do bà Nguyễn Thị B sinh năm 1964 ở xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang là Chủ doanh nghiệp.

Toà án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang thụ lý, giải quyết xác định bị đơn là Doanh nghiệp tư nhân H là không chính xác tư cách tham gia tố tụng trong vụ án. Theo quy định tại khoản 1 Điều 183, khoản 3 Điều 185 Luật doanh nghiệp 2014; Khoản 1 Điều 188, khoản 3 Điều 190 Luật doanh nghiệp năm 2020 thì Toà án phải xác định tư cách tham gia tố tụng trong vụ án này bị đơn là Bà Nguyễn Thị B Chủ doanh nghiệp tư nhân H mới đúng. 

Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang có vi phạm vì xác định tư cách tố tụng, tuy nhiên trong suốt quá trình giải quyết vụ án bà Nguyễn Thị B đã tham gia tố tụng đầy đủ (với tư cách người đại diện theo pháp luật của Doanh nghiệp tư nhân H) vì vậy hoàn toàn có điều kiện để bảo vệ quyền lợi và quyền lợi của bà vẫn đảm bảo nên không cần thiết phải huỷ án, mà chỉ cần sửa án sơ thẩm về nội dung xác định bị đơn.

Do vậy, để đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; Viện KSND tỉnh Bắc Giang đã ban hành văn bản kháng nghị phúc thẩm đối với toàn bộ bản án sơ thẩm của TAND huyện L giải quyết vụ án nêu trên./.

Lương Thanh Hảo- Phòng 10, Viện KSND tỉnh Bắc Giang

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:29,711,361
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.133.150.67

    Thư viện ảnh