Vụ án tranh chấp kiếu kiện hành vi hành chính giữa người khởi kiện bà Đoàn Thị K khởi kiện Chủ tịch UBND xã BH (nay thị trấn BH), huyện YT về hành vi thu hồi diện tích 670m2 đất của gia đình bà là trái pháp luật (cụ thể là hành vi hành chính của ông Vũ Văn P nguyên Chủ tịch UBND xã BH, huyện YT cưỡng chế thu hồi đất không đúng quy định và bán diện tích 670m2 đất tại thửa đất số 12, tờ bản đồ số 12, tại TDP TX, thị trấn BH, huyện YT); Yêu cầu Tòa án buộc ông Vũ Văn P phải trả lại diện tích 670m2 đất.
Người bị kiện cho rằng, năm 2010 - 2012, UBND xã BH (nay là UBND thị trấn BH), huyện YT có chủ trương thu hồi đất để làm khu dân cư, đã có nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã. Chủ tịch UBND xã BH lúc đó đã thực hiện theo đúng các chủ trương, quyết định của Nhà nước. Các công việc thu hồi, giải phóng mặt bằng khu đất nêu trên, ông Vũ Văn P thực hiện là công việc của tập thể, của UBND xã chứ không phải cá nhân ông P tự làm được. Việc bà K cho rằng, năm 2000 UBND xã BH đã bán thẳng cho bà K thửa đất số 329, tờ bản đồ số 12 với giá là 303.300 đồng là không đúng, mà UBND xã BH thu tiền giao khoán đối với bà K, nên hàng năm bà K vẫn đóng thuế đối với diện tích đất nêu trên. Bà K đã khiếu nại nhiều năm và ngày 16/7/2020, Chủ tịch UBND huyện YT ban hành Quyết định số 2908/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà K (lần 1) không chấp nhận khiếu nại; ngày 03/02/2021, Chủ tịch UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 253/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại (lần 2), nội dung thống nhất với Quyết định số 2908/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND huyện YT về việc giải quyết khiếu nại của bà K”. Nay bà K yêu cầu TAND huyện YT giải quyết xem xét về hành vi thu hồi đất của Chủ tịch UBND xã BH không đúng quy định, buộc ông Vũ Văn P phải trả lại diện tích 670m2. Người bị kiện không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà K.
Với nội dung vụ án nêu trên,Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2023/HC-ST ngày 11/9/2023 của TAND huyện YT đã quyết định: Căn cứ Điều 3, khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 31, điểm a khoản 2 Điều 116, khoản 2 Điều 157, 158, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 204, Điều 206 Luật tố tụng hành chính; Căn cứ Điều 57, khoản 2 Điều 66, Điều 71, Điều 204 Luật đất đai; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 hướng dẫn về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:
1. Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của bà K về việc buộc ông Vũ Văn P (nguyên Chủ tịch UBND xã BH) phải trả lại diện tích 670m2 đất lâm nghiệp tại thửa đất số 329, tờ bản đồ số 12; địa chỉ thửa đất tại: Tổ dân phố TX, thị trấn BH, huyện YT, tỉnh B.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà K về việc khiếu kiện hành vi hành chính của Chủ tịch UBND thị trấn BH (trước đây là xã BH), huyện YT đối với thu hồi diện tích 519m2 đất Lâm nghiệp tại thửa đất số 329, tờ bản đồ số 12, tại TDP TX, thị trấn BH, huyện YT, tỉnh B...
Xem xét nội dung vụ án và việc giải quyết của Tòa án nhân dân huyện YT, Viện KSND tỉnh B thấy Tòa án có vi phạm như sau:
Bà K yêu cầu Tòa án giải quyết 2 nội dung, trong đó có yêu cầu: Kiện hành vi hành chính của Chủ tịch UBND xã BH (nay thị trấn BH), huyện YT về hành vi thu hồi diện tích 670m2 đất của gia đình bà K là trái pháp luật (cụ thể là hành vi hành chính của ông Vũ Văn P, nguyên Chủ tịch UBND xã BH, huyện YT về việc cưỡng chế thu hồi đất không đúng quy định và bán diện tích 670m2 đất tại thửa đất số 12, tờ bản đồ số 12, tại TDP TX, thị trấn BH, huyện YT).
Nhưng tại phần quyết định của bản án, Tòa án đã quyết định: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà K về việc khiếu kiện hành vi hành chính của Chủ tịch UBND thị trấn BH (trước đây là xã BH), huyện YT đối với thu hồi diện tích 519m2 đất Lâm nghiệp tại thửa đất số 329, tờ bản đồ số 12, tại TDP TX, thị trấn BH, huyện YT” là giải quyết không đúng với yêu cầu khởi kiện của bà K, vi phạm Điều 8 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
Bà K rút một phần yêu cầu khởi kiện, Tòa án đã quyết định “Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Thị K về việc buộc ông Vũ Văn P (nguyên Chủ tịch UBND xã BH) phải trả lại diện tích 670m2 đất ...”. Nhưng phần quyết định của bản án Tòa án không viện dẫncăn cứĐiều 143, Điều 144, khoản 2 Điều 165 Luật tố tụng hành chính để giải quyết vụ án, là không đúng quy định tại điểm c khoản 2 Điều 194 Luật tố tụng hành chính.
Theo quy định tại Điều 44 Luật đất đai năm 2003 và khoản 2 Điều 66 Luật đất đai năm 2013 thì thẩm quyền thu hồi đất là của UBND cấp huyện. Chủ tịch UBND xã BH (thị trấn BH) không có thẩm quyền thu hồi đất... mà “Chủ tịch UBND xã BH chỉ thực hiện trình tự, thủ tục về thu hồi đất theo quy định của pháp luật…” . Nhưng Tòa án lại nhận định: “Chủ tịch UBND thị trấn BH thu hồi đất của gia đình bà K từ năm 2012, 2017”; “Chủ tịch UBND xã BH thực hiện việc thu hồi đất của gia đình bà K là thực hiện theo quyết định số 1742/QĐ…”; “ Chủ tịch UBND thị trấn BH thực hiện việc thu hồi đất của gia đình bà K là đúng quy định của pháp luật”, là nhận định không.
Theo quy định tại Điều 18 và Điều 21 Luật khiếu nại năm 2011 thì Chủ tịch UBND huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu nại (lần 1) và Chủ tịch UBND tỉnh có thẩm quyền giải quyết khiếu nại (lần 2) đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần 1. UBND huyện và UBND tỉnh B không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Ngày 16/7/2020, Chủ tịch UBND huyện YT ban hành Quyết định số 2908/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà K (lần 1) không chấp nhận khiếu nại. Ngày 03/02/2021, Chủ tịch UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 253/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại (lần 2). Nhưng tại phần nhận định của bản án, Tòa án lại nêu: Ngày 16/7/2020 UBND huyện YT ban hành Quyết định số 2908/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà K; Ngày 03/02/2021 UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 253/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà K, là nêu không đúng.
Người bị kiện là Chủ tịch UBND thị trấn BH; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Chủ tịch UBND huyện và UBND huyện YT. Nhưng tại phần ghi danh sách người tham gia tố tụng của bản án. Tòa án không nêu họ và tên người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng này là không đúng.
Xét thấy, Bản án hành chính sơ thẩm của TAND huyện YT giải quyết có những vi phạm như đã nêu trên nên. Viện KSND tỉnh B đã ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm đối với toàn bộ Bản án, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm, xử sửa Bản án hành chính sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật./
Lương Thanh Hảo- Phòng 10, VKSND tỉnh Bắc Giang