Nội dung vụ án: Nguyên đơn anh Đồng Văn Hồng trình bày, trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2021, anh có bán cho anh Hanh các loại hàng hoá sắt, thép. Ngày 17/12/2021, hai bên chốt sổ số tiền hàng anh Hanh mua, còn nợ chưa thanh toán tiền là 79.597.000đ. Sau đó anh đã nhiều lần yêu cầu anh Hanh trả tiền, nhưng anh Hanh không thanh toán trả nợ. Nay anh khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, buộc anh Hanh trả anh số tiền mua hàng còn nợ là 79.597.000đ và yêu cầu anh Hanh phải trả tiền lãi của số tiền còn nợ theo mức lãi suất 20%/năm, tính từ ngày 16/01/2022 đến ngày Tòa án xét xử vụ án.
Bị đơn anh Đồng Văn Hanh trình bày: Anh thừa nhận đến ngày 16/01/2022, số tiền hàng anh còn nợ anh Hồng là 79.597.000đ. Sau đó, anh có trả tiền cho anh Hồng nhiều lần. Khi trả không có giấy tờ gì và cũng không ký vào sổ của anh Hồng. Hiện anh chỉ còn nợ khoảng 15.000.000đ đến 17.000.000đ. Đối với số tiền lãi anh Hồng yêu cầu, anh không đồng ý trả, vì đây là nợ tiền mua hàng, không phải là nợ tiền vay.
Với nội dung vụ án nêu trên, Bản án dân sự sơ thẩm số 23/2023/DS-ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân huyện LG đã áp dụng Điều 430; Điều 434; Điều 357; khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 272; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đồng Văn Hồng đối với anh Đồng Văn Hanh. Buộc anh Đồng Văn Hanh phải có nghĩa vụ trả cho anh Đồng Văn Hồng số tiền mua hàng còn nợ là 79.597.000 đồng và tiền lãi là 21.889.000 đồng. Tổng cộng là 101.486.000 đồng.
Về án phí: Buộc anh Đồng Văn Hanh phải chịu 5.074.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm...
Xem xét nội dung vụ án và việc giải quyết của Tòa án nhân dân huyện LG, thấy:
Giữa anh Hồng và anh Hanh đã xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa sắt, thép. Tính đến ngày 16/01/2022, anh Hanh còn nợ anh Hồng số tiền mua hàng là 79.597.000đ. Anh Hồng yêu cầu anh Hanh phải thanh toán trả cho anh 79.597.000đ tiền gốc và tiền lãi tính từ ngày 16/01/2022 đến ngày xét xử là có căn cứ. Tuy nhiên, mức lãi suất anh Hồng yêu cầu 20%/năm là không có căn cứ. Vì:
Khi thực hiện việc mua bán hàng hóa, giữa anh Hồng và anh Hanh không thỏa thuận với nhau về việc anh Hanh phải trả tiền lãi, mức lãi suất nếu chậm thanh toán trả tiền mua hàng. Nhưng do anh Hanh chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền nên căn cứ quy định tại các Điều 357, khoản 3 Điều 440, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, thì anh Hanh phải có nghĩa vụ thanh toán trả cho anh Hồng 79.597.000đ tiền mua hàng còn nợ và phải có nghĩa vụ trả lãi đối với số tiền chậm trả từ ngày 16/01/2022 đến ngày Tòa án xét xử (31/5/2023), với mức lãi suất 10%/năm (0,83%/tháng), cụ thể số tiền lãi là: 79.597.000 đồng x 0,83% x 16 tháng 15 ngày = 10.900.000đ. Tổng cộng anh Hanh phải thanh toán trả cho anh Hồng 90.497.000đ.
Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, anh Hanh phải chịu số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 90.497.000đ x 5% = 4.524.000đ.
Anh Hồng yêu cầu anh Hanh trả 21.889.000đ tiền lãi. Theo quy định của pháp luật chỉ được chấp nhận 10.900.000đ. Nên anh Hồng phải chịu số tiền án phí đối với phần yêu cầu không được chấp nhận là 10.989.000đ x 5% = 549.000đ.
Xét thấy, việc Tòa án giải quyết chấp nhận toàn bộ yêu cầu của anh Hồng. Buộc anh Hanh phải trả cho anh Hồng tiền mua hàng gốc còn nợ, tiền lãi tổng cộng là 101.486.000đ và buộc anh Hanh phải chịu 5.074.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm là không dúng quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của anh Hanh. Nên Viện kiểm sát đã ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm một phần Bản ándân sự sơ thẩmnêu trên, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm, xử sửa Bản ándân sự sơ thẩm về số tiền lãi anh Hanh phải trả anh Hồng; số tiền án phí anh Hanh, anh Hồng phải chịu theo đúng quy định của pháp luật./.
Nguyễn Thị Tuyết- Phòng 9, VKSND tỉnh Bắc Giang