Thông qua công tác kiểm sát việc Tòa án nhân dân huyện H giải quyết vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn ông Ngô Văn V với bị đơn anh Ngô Văn T thấy như sau:
Ngày 04/10/2013 hộ anh T được UBND huyện H cấp GCNQSDĐ có diện tích là 546,2m2. Kết quả đo đạc hiện trạng ngày 28/7/2021 đất của nhà anh T đang quản lý sử dụng có tổng diện tích 583,7m2 gồm cả đất hành lang đê. Phần diện tích đất không tính hành lang đê là 441m2. Phần anh T xây nhà 157,7m2, phần đất còn lại 283,3m2.
Ông V cho rằng, trong diện tích đất anh T được cấp GCNQSDĐ nêu trên có diện tích 240m2 (đo thực tế hiện nay là 283,3m2) có nguồn gốc là của gia đình ông V. Năm 1996 ông V đi miền Nam, bà T là con gái ông V đã tự ý chuyển nhượng 240m2 đất và nhà cho ông H; không có việc ông V ủy quyền cho bà T bán nhà đất. Các giấy tờ chỉ là bản viết tay, không có công chứng, chứng thực, không phải là chữ ký của ông V, bà T. Ban đầu ông V khởi kiện yêu cầu buộc anh T trả toàn bộ diện tích 546,2 m2. Sau đó ông V do bà L đại diện yêu cầu anh T trả phần đất có diện tích 283,3m2.
Nhưng anh T không đồng ý với yêu cầu của ông V. Anh T, ông B đều cho rằng phần diện tích đất này có 240m2 đất của hộ ông V. Năm 1996 đã ủy quyền cho bà T đã bán cho ông H, ông H mua cho anh Đ. Sau đó anh Đ bán cho ông B phần đất đã mua 240m2 và 48m2 đất anh Đ được tập thể cho. Ông B đã được cấp GCNQSDĐ ngày 13/6/2001. Ông B cho anh T sử dụng, anh T đã được cấp GCNQSDĐ ngày 04/10/2013
Tại đơn khởi kiện ghi ngày 01/4/2019 ông V đã trình bày: Năm 1996 ông V bán nhà cho anh Đ có giá 10.000.000đ để lấy tiền đi miền nam. Ông có thỏa thuận miệng là chỉ bán nhà, không bán đất, khi nào ông về quê sinh sống thì trả lại đất cho ông. Nhưng ông V không cung cấp được tài liệu thể hiện chỉ bán nhà, không bán đất cho anh Đ. Lời khai này của ông V không được anh T, ông B thừa nhận.
Bà T có lời khai thừa nhận năm 1996 trước khi đi miền Nam, do ông V không có tiền nên bà T đã vay 10.000.000đ đưa cho ông V. Ông V ủy quyền cho bà T bán đất để lấy tiền trả nợ. Sau vài tháng thì ông H hỏi mua cho cháu Đ nên bà có bán giá 10.000.000đ. Khi bán bà có ký vào giấy biên nhận tiền với ông H, còn ông B là người giao tiền cho bà.
Anh T đã cung cấp cho Tòa án các tài liệu: Văn bản chuyển quyền sử dụng đất ngày 22/9/1996 có nội dung thể hiện ông V chuyển nhượng cho bà T diện tích đất 288m2 có chữ ký ghi là của ông V, bà T; Bản cam kết ghi là của bà T ngày 4/10/96 có nội dung thể hiện bà T được bố mẹ ủy quyền cho bà T bán 10 thước đất và ba gian nhà. Bà T để lại cho ông H lấy cho cháu là anh Đ; Giấy giao nhận tiền ngày 22/8/1996 âm lịch; ngày 4/12/1996 có nội dung ông B giao cho bà T tổng số 10.000.000đ tiền chuyển nhượng đất của ông V. Theo kết luận số 05/KL-KTHS ngày 28/02/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ công an đã kết luận chữ ký T, các chữ Ngô Thị T trên các tài liệu do anh T cung cấp nêu trên so với chữ ký, chữ viết của Ngô Thị T trên các mẫu so sánh do cùng một người ký, viết ra.
Những người làm chứng ông Đ, ông X, bà Đ, ông C đều có lời khai năm 1996 ông V đã bán đất cho ông Hiển.
Năm 2000 ông V có về quê để kê khai xin cấp GCNQSDĐ và đã được cấp GCNQSDĐ ngày 10/10/2000 với diện tích 3.542m2 đất. Nhưng ông V không kê khai phần diện tích đất đang tranh chấp với anh T.
Từ những căn cứ lý do nêu trên có cơ sở để xác định diện tích 283,3m2 đất ông V yêu cầu anh T trả có nguồn gốc của gia đình ông V. Ngày 22/9/1996 ông V đã ký giấy chuyển nhượng cho bà T diện tích đất 288m2. Năm 1996 bà T đã bán đất này cho ông H. Ông V đã thừa nhận nhận đủ tiền. Ông H mua cho cháu là anh Đ. Năm 1998 anh Đ bán cho ông B. Năm 2001 ông B đã được cấp GCNQSDĐ. Năm 2006 ông B cho anh T sử dụng đất này. Năm 2013 anh T được cấp GCNQSDĐ. Mặc dù việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên không đảm bảo về trình tự thủ tục; GCNQSDĐ cấp cho ông B, anh T đã bị thu hồi là do kê khai không đúng nguồn gốc sử dụng đất, cấp chồng lấn. Nhưng từ năm 1996 ông V đã không quản lý sử dụng đất này; không kê khai xin cấp GCNQSDĐ. Gia đình ông B, anh T quản lý, sử dụng đất ổn định, lâu dài từ đó cho đến năm 2019 ông V mới tranh chấp. Do đó có đủ căn cứ để công nhận quyền sử dụng 283,3m2 đất là của anh T. Việc ông V yêu cầu anh T trả 283,3m2 đất và việc Tòa án xử buộc anh T phải giao lại diện tích đất 283,3m2 cho ông V là không có căn cứ, không đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho anh T.
Sau khi xét xử sơ thẩm, anh T đã có đơn kháng cáo và Viện KSND tỉnh B đã ban hành quyết định kháng nghị một phần Bản ándân sự sơ thẩm của TANDhuyện H giải quyết vụ án vụ án nêu trên.
Ngày 16/11/2022 Hội đồng xét xử phúc thẩm - TAND tỉnh B đã xét xử vụ án, sửa bản án sơ thẩm theo kháng nghị của VKS: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn V về việc yêu cầuanh Ngô Văn T phải giao lại diện tích đất 283,3m2 cho ông Ngô Văn V./.
Lương Thất Tùng- Phòng 9, VKSND tỉnh Bắc Giang