Ngày 02/11/2023, Viện KSND tỉnh Bắc Giang đã ban hành văn bản số 3077/KN-VKS-DS kiến nghị với Chủ tịch UBND huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang phòng ngừa vi phạm pháp luật về đất đai.
Qua công tác kiểm sát việc giải quyết 02 vụ án dân sự sơ thẩm, phúc thẩm do Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang thụ lý giải quyết, gồm: (1) vụ “Tranh chấp chia tài sản chung, chia thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị K với bị đơn anh Nguyễn Văn T (được xét xử tại Bản án dân sự sơ thẩm số 37/2023/DS-ST ngày 25/10/2023); (2) vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn bà Phạm Thị H với bị đơn ông Phạm Văn L (được xét xử tại Bản án dân sự phúc thẩm số 154A/2023/DS-PT ngày 16/9/2023), Viện KSND tỉnh Bắc Giang thấy có một số vi phạm, thiếu sót khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) như sau:
1. Việc cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn T
Trong hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho hộ ông T có đơn ghi là của ông Nguyễn Văn T, xin đăng ký quyền sử dụng diện tích 227m2 đất thổ cư, thửa đất số 126, tờ bản đồ số 06, tại xóm 4, thôn Yên Viên, xã Vân Hà, huyện Việt Yên (đơn không ghi ngày, tháng, năm, không có chữ ký của người làm đơn). Trong đơn, phần ghi ý kiến của UBND xã Vân Hà bỏ trống, nhưng được Chủ tịch UBND xã Vân Hà ký tên, đóng dấu ngày 26/8/1998; phần ghi ý kiến của cơ quan địa chính có thẩm quyền bỏ trống, được Trưởng phòng địa chính huyện Việt Yên ký tên, đóng dấu ngày 15/9/1998. Ngày 27/9/1998, UBND huyện Việt Yên cấp GCNQSDĐ, số vào sổ 00541 theo quyết định số 468/QĐ-UB cho hộ ông Nguyễn Văn T, diện tích 227m2 đất tại thôn Yên Viên, xã Vân Hà, huyện Việt Yên.
Nguồn gốc thửa đất trên do ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị K (là bố mẹ ông T) quản lý, sử dụng từ năm 1960. Ông T sinh sống cùng bố mẹ trên thửa đất này, đến tháng 12/2009 ông T chuyển đi ở nơi khác. Ông T trình bày, ông được bố mẹ ông cho ông bằng miệng thửa đất này. Ông T không có giấy tờ chứng minh việc được bố mẹ cho đất. Việc UBND huyện Việt Yên cấp GCNQSDĐ cho ông T (ông T không ký đơn đăng ký) là không đúng đối tượng sử dụng đất.
2. Việc cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình ông Phạm Khắc G
Ngày 12/4/2000, ông Phạm Khắc G làm đơn xin đăng ký quyền sử dụng diện tích đất 196m2, thửa đất số 198, tờ bản đồ số 09, tại thôn Trại Đồng, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên. Trong đơn của ông G, phần ghi ý kiến của UBND xã Nghĩa Trung bỏ trống, nhưng được Chủ tịch UBND xã Nghĩa Trung ký tên, đóng dấu ngày 10/10/2000; phần ghi ý kiến của cơ quan địa chính có thẩm quyền bỏ trống, được Trưởng phòng địa chính huyện Việt Yên ký tên, đóng dấu, không ghi ngày, tháng, năm. Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 19/4/1999, phần các chủ sử dụng đất giáp ranh ký tên không có chữ ký của ông Đặng Văn T (giáp cạnh phía Nam). Ngày 15/11/2000,UBND huyện Việt Yên cấp GCNQSDĐ số Q 8666842, số vào sổ 20436 cho hộ ông Phạm Khắc G (phần ghi họ tên người được cấp giấy có việc sửa chữa tên đệm, tênvà có đóng dấu của Phòng Địa chính - Nông nghiệp huyện Việt Yên), diện tích 375m2 (300m2 đất thổ cư; 75m2 đất vườn), tờ bản đồ số 9, thửa 194, tại thôn Trại Đồng (nay là thôn Đồng Xuân), xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên; sơ đồ thửa đất trong GCN lại ghi là 404m2. Việc cấp GCNQSDĐ cho ông G không phù hợp với đơn xin đăng ký QSDĐ của ông G, diện tích cấp GCN không đúng với diện tích ghi trong sơ đồ.
3. Việc cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình ông Phạm Thành L
Ngày 12/4/2000, ông Phạm Thanh L (con trai ông G) làm đơn xin đăng ký quyền sử dụng diện tích 375m2 (300m2 đất ở; 75m2 đất vườn), thửa đất số 191, tờ bản đồ số 09, tại thôn Trại Đồng, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên. Trong đơn của ông L, phần ghi ý kiến của UBND xã Nghĩa Trung bỏ trống, nhưng được Chủ tịch UBND xã Nghĩa Trung ký tên, đóng dấu ngày 10/10/2000; phần ghi ý kiến của cơ quan địa chính có thẩm quyền bỏ trống, được Trưởng phòng Địa chính huyện Việt Yên ký tên, đóng dấu, không ghi ngày tháng năm. Sơ đồ thửa đất kèm theo biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 12/4/1999 lại ghi là thửa đất 194 diện tích 404m2. Ngày 15/11/2000, UBND huyện Việt Yên cấp GCNQSDĐ số vào sổ 02464 cho hộ ông Phạm Thanh L (phần ghi họ tên người được cấp giấy có việc sửa chữa tên đệm, tên và có đóng dấu của Phòng địa chính nông nghiệp huyện Việt Yên), diện tích 496m2 đất thổ cư, thửa 198, tờ bản đồ số 9, tại thôn Trại Đồng (nay là thôn Đồng Xuân), xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên. Nhưng sơ đồ thửa đất trong GCN lại ghi là 196m2. Việc cấp GCNQSDĐ cho ông L không phù hợp với đơn xin đăng ký QSDĐ của ông L, diện tích cấp GCN không đúng với diện tích ghi trong sơ đồ.
4. Việc cấp GCNQSDĐ cho ông Đặng Văn T, bà Phạm Thị H
Ngày 18/10/2006, ông Đặng Văn T làm đơn xin đăng ký quyền sử dụng diện tích 177m2, thửa đất số 195, tờ bản đồ số 09, tại thôn Trại Đồng, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên. Trong đơn ghi nguồn gốc sử dụng đất trước ngày 15/10/1993; sử dụng năm 1960; mục đích sử dụng đất là đất thổ cư, đất vườn. Đơn được Chủ tịch UBND xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên duyệt, ký tên, đóng dấu ngày 14/11/2006; phần ghi kết quả thẩm tra của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, ý kiến của cơ quan tài nguyên môi trường bỏ trống, không ký duyệt. Ngày 26/6/2008, UBND huyện Việt Yên cấp GCNQSDĐ số AM 216699, số vào sổ H 04617 cho ông Đặng Văn T, bà Phạm Thị H, diện tích 177m2, mục đích sử dụng đất là đất ở, tờ bản đồ số 9, thửa 195, tại thôn Trại Đồng (nay là thôn Đồng Xuân), xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên.
Nguồn gốc thửa đất số 195 của bà H, ông T là do nhận chuyển nhượng của gia đình ông Nguyễn Quốc B năm 1995, là thửa đất ao, hiện nay vẫn giữ nguyên trạng là ao, trên đất không có tài sản gì. Khi chuyển nhượng thửa đất trên, hai bên không đo đạc hiện trạng, nên không xác định cụ thể ranh giới. Trong giấy chuyển nhượng ghi diện tích 177m2 là ghi theo số đo của bản đồ năm 1989. Trong hồ sơ cấp GCNQSD đất cho ông T, bà H không có tài liệu thể hiện đất đã làm thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất ao sang đất ở.
Theo sơ đồ thửa đất 195 trong GCNQSDĐ có các cạnh phía Bắc giáp ông H 16,4m; cạnh phía Nam giáp thửa đất 194 của ông G 14,4m (theo sơ đồ cấp GCN cho ông G cạnh này là 8,9m – tăng 5,5m); cạnh phía Đông giáp đất ông G 11m (theo sơ đồ cấp GCN cho ông G cạnh này là 7,7m – tăng 3,3m); cạnh phía Tây giáp đường làng 12m. Hình thể, diện tích thửa đất 195 trong hồ sơ cấp GCNQSDĐ năm 2008 cho ông T, bà H phù hợp với bản đồ năm 1989; khác biệt so với bản đồ năm 2008; không phù hợp với hiện trạng thửa đất. Hình thể, diện tích thửa đất 195 mà ông T, bà H được cấp GCNQSDĐ có phần chồng lấn vào một phần hình thể, diện tích đất hộ ông G được cấp GCNQSDĐ năm 2000.
Như vậy, việc UBND huyện Việt Yên cấp GCNQSDĐ cho hộ ông T; hộ ông G; hộ ông L, cho ông T, bà H như đã nêu trên, là không đúng trình tự thủ tục, không đúng diện tích, không đúng đối tượng, vi phạm quy định về thủ tục đăng ký đất đai được quy định tại Thông tư số 346/1998/TT-TCĐC ngày 16 tháng 3 năm 1998 của Tổng cục địa chính; Thông tư 29/2004/TT-BTNMT ngày 01 tháng 11 năm 2004 của Bộ tài nguyên và môi trường. Điều 135 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ quy định về thi hành Luật đất đai năm 2003, điểm đ khoản 1 và khoản 4Điều 36 Luật đất đai năm 2003.
Vi phạm trong việc lập hồ sơ cấp GCNQSDĐ như đã nêu trên là một trong những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp QSDĐ giữa các đương sự và ảnh hưởng đến quyền sử dụng đất của người dân, dẫn đến những khó khăn khi xem xét, giải quyết tranh chấp cũng như cấp lại GCNQSDĐ cho các hộ dân sau này. Kết quả xét xử 2 vụ án nêu trên, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang quyết định: hủy GCNQSDĐ do UBND huyện Việt Yên đã cấp cho hộ ông T; hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 41/2022/DSST ngày 31/8/2022 của TAND huyện Việt Yên, để Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xem xét, giải quyết lại vụ án theo hướng hủy GCNQSDĐ đã cấp cho hộ ông G, cho ông T, bà H.
Để kịp thời phát hiện, phòng ngừa vi phạm trong việc lập hồ sơ cấp GCNQSDĐ nói riêng và công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về đất đai tại địa phương; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân; hạn chế thấp nhất việc phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai, Viện trưởng Viện KSND tỉnh Bắc Giang kiến nghị Chủ tịch UBND huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang:
Tăng cường công tác chỉ đạo, quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm quy định của pháp luật liên quan đến quản lý đất đai; nâng cao hiệu quả hòa giải ở cơ sở đối với các tranh chấp đất đai trên địa bàn.
Chỉ đạo UBND cấp xã và các đơn vị có liên quan thực hiện, hướng dẫn người dân thực hiện thủ tục cấp GCNQSDĐ theo đúng quy định của pháp luật.
Tổ chức kiểm tra, rút kinh nghiệm đối với những đơn vị có liên quan đến vi phạm trong việc cấp các GCNQSDĐ nêu trên (nếu có).
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện công tác quản lý đất đai, công tác lập hồ sơ, cấp giấy GCNQSDĐ của các đơn vị có liên quan. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật đất đai đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn./.
Thân Mạnh Thắng- Phòng 9, VKSND tỉnh Bắc Giang