Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết án dân sự trên địa bàn tỉnh, Viện KSND tỉnh Bắc Giang thấy rằng số lượng các vụ án tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất (tranh chấp quyền sử dụng đất, chia tài sản chung, thừa kế, hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất) phát sinh ngày càng nhiều, tính chất phức tạp. Tranh chấp phát sinh do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó có một phần nguyên nhân do lỗi của cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai, không thực hiện đúng, đầy đủ trình tự thủ tục do pháp luật quy định khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Qua công tác kiểm sát việc giải quyết 02 vụ án dân sự sơ thẩm do Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang thụ lý giải quyết, gồm: (1) vụ “Tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn anh Dương Văn Khiêm với bị đơn bà Dương Thị Dung (được xét xử tại Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2023/DS-ST ngày 28/8/2023); (2) vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn bà Phạm Thị Lan với bị đơn anh Lưu Văn Quảng (được xét xử tại Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2023/DS-ST ngày 06/9/2023), Viện KSND tỉnh Bắc Giang thấy có một số vi phạm, thiếu sót khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) như sau:
1. Việc cấp GCNQSDĐ ngày 26/12/2002 mang tên hộ bà Dương Thị Dung
Ngày 28/6/1999, UBND huyện Yên Dũng cấp GCNQSDĐ số 00295QSDĐ/197QĐ/UB-H cho hộ bà Dương Thị Dung, diện tích 3.456m2 đất nông nghiệp (trong đó có thửa số 452(2), tờ bản đồ số 13, diện tích 432m2, tại thôn Sy, xã Nội Hoàng, huyện Yên Dũng).
Ngày 06/11/2002, bà Dung đã ký giấy chuyển nhượng cho ông Dương Văn Quyết diện tích 432m2 tại thửa số 452(2). Sau khi nhận chuyển nhượng, đến khoảng năm 2011, ông Quyết đã xây dựng nhà cấp 4, công trình phụ và đào ao sử dụng đến nay.
Ngày 26/12/2002, UBND huyện Yên Dũng cấp GCNQSD đất số X 002463 cho hộ bà Dung, diện tích 377m2 đất thổ cư tại thôn Sy, xã Nội Hoàng, huyện Yên Dũng (Giấy chứng nhận không ghi số thửa, số tờ bản đồ). Đại diện UBND huyện Yên Dũng và đại diện UBND xã Nội Hoàng đều có quan điểm trình bày thửa đất có diện tích 377m2 nêu trên đúng là thửa đất số 452(2) diện tích 432m2 đất nông nghiệp đã được UBND huyện Yên Dũng cấp GCNQSDĐ cho hộ bà Dung ngày 28/6/1999.
UBND xã Nội Hoàng, UBND huyện Yên Dũng, Văn phòng đăng ký đất đai huyện Yên Dũng đã cung cấp hồ sơ cấp 02 GCNQSDĐ nêu trên, gồm: 01 đơn đăng ký quyền sử dụng đất của hộ bà Dung đối với 11 thửa đất nông nghiệp (có thửa 452(2)); sổ địa chính của các thửa đất nông nghiệp; Bản sao GCNQSDĐ ngày 26/12/2002; giấy chuyển nhượng đất nông nghiệp (bản phô tô) và 01 đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất ngày 15/8/2002 mang tên Dương Thị Dung với diện tích 377m2, có chữ ký của trưởng thôn và chữ ký, dấu của UBND xã Nội Hoàng. Hồ sơ không có đơn xin đăng ký biến động đất đai, không có quyết định về việc chuyển mục đích sử dụng đất, thông báo về việc chỉnh lý biến động hồ sơ địa chính, không có tài liệu gì thể hiện được miễn nộp phí chuyển đổi mục đích hay phải nộp phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
Ông Quyết khai, ông đã làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất từ đất trồng lúa sang đất thổ cư, ông có nộp tiền thuế chuyển đổi mục đích sử dụng (không có tài liệu, chứng cứ chứng minh), ông là người đi làm các thủ tục để UBND huyện Yên Dũng cấp GCNQSDĐ ngày 26/12/2002 mang tên hộ bà Dung. Bà Dung khai, bà không làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng của thửa đất 452(2) sang đất thổ cư, đơn đăng ký quyền sử dụng đất không phải là chữ ký của bà, bà không biết đến GCNQSDĐ đối với diện tích 377m2.
UBND huyện Yên Dũng cấp GCNQSDĐ ngày 26/12/2002 đối với diện tích 377m2, nhưng không thực hiện việc chỉnh lý số diện tích đất này trong GCNQSDĐ đã cấp cho hộ bà Dung vào ngày 28/6/1999.
Như vậy, việc cấp GCNQSDĐ ngày 26/12/2002 mang tên hộ bà Dương Thị Dung đối với diện tích 377m2 đất thổ cư là không đúng trình tự thủ tục, không đúng diện tích, không đúng đối tượng, vi phạm quy định về thủ tục đăng ký đất đai được quy định tại Chương 3, Thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của Tổng cục Địa chính. Vi phạm nêu trên đã dẫn đến tranh chấp QSDĐ giữa các đương sự và Tòa án phải giải quyết hủy GCNQSDĐ do UBND huyện Yên Dũng cấp ngày 26/12/2002 mang tên hộbà Dung đối với diện tích 377m2 đất thổ cư.
2. Việc cấp GCNQSDĐ cho ông Lưu Văn Đáng ngày 19/5/1997; GCNQSDĐ cấp cho ông Lưu Viết Chín, bà Phạm Thị Lan ngày 03/6/2014
Ngày 19/5/1997, UBND huyện Yên Dũng có Quyết định số 205/QĐ-UBND về việc cấp GCNQSDĐ đất ở cho các hộ dân xã Cảnh Thụy, huyện Yên Dũng, danh sách kèm theo Quyết định số 205 có tên ông Lưu Văn Đáng; sổ địa chính thể hiện, thửa đất số 75, tờ bản đồ số 20, diện tích 578m2, mục đích sử dụng là đất ao, mang tên ông Lưu Văn Đáng.
Ngày 03/6/2014, UBND huyện Yên Dũng đã cấp GCNQSDĐ số BU 604299 cho ông Lưu Viết Chín, bà Phạm Thị Lan đối với thửa đất số 210a2, tờ bản đồ số 40 diện tích 138,35m2 đất ở.
Tuy nhiên, theo lời khai của các đương sự, bản đồ địa chính năm 1992, bản đồ địa chính năm 2007 đều thể hiện thửa đất số 75, 210a2 là đất “ao”, chưa chuyển đổi mục đích sử dụng sang đất ở. Theo ý kiến của đại diện UBND huyện Yên Dũng và cán bộ địa chính xã Cảnh Thụy, xác định trong số diện tích 138,35m2 của thửa đất số 210a2 có khoảng 48m2 thuộc thửa đất số 75 đã cấp GCNQSDĐ cho ông Lưu Văn Đáng năm 1997.
Như vậy, việc cấp GCNQSDĐ đất ở cho ông Lưu Văn Đáng và ông Lưu Viết Chín, bà Phạm Thị Lan khi đất ao chưa thực hiện việc chuyển đổi mục đích sử dụng sang đất ở; cấp GCNQSDĐ cho ông Chín, bà Lan đã chồng lấn lên một phần diện tích đất đã cấp cho hộ ông Đáng, không có tài liệu thể hiện đã chỉnh lý biến động GCNQSDĐ đã cấp cho ông Đáng, là không đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 135 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ quy định về thi hành Luật đất đai năm 2003, điểm đ khoản 1 và khoản 4 Điều 36 Luật đất đai năm 2003. Dẫn đến việc Tòa án phải quyết định hủy một phần quyết định số 205/QĐ-UBND ngày 19/5/1997 của UBND huyện Yên Dũng về việc cấp GCNQSDĐ đất ở thửa đất số 75, tở bản đồ số 20, diện tích 578m2 cho ông Lưu Văn Đáng và hủy GCNQSDĐ số BU 604299 ngày 03/6/2014, do UBND huyện Yên Dũng cấp cho ông Lưu Viết Chín, bà Phạm Thị Lan đối với thửa đất số 210a2, tờ bản đồ số 40 diện tích 138,35m2 đất ở.
Những vi phạm về trình tự, thủ tục khi cấp các GCNQSDĐ nêu trên là một trong những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp giữa các đương sự, dẫn đến Tòa án phải hủy các GCNQSDĐ đã cấp cho các hộ dân, ảnh hưởng đến quyền sử dụng đất và có thể dẫn đến những khó khăn khi xem xét, giải quyết tranh chấp cũng như cấp lại GCNQSDĐ cho các hộ dân sau này.
Ngoài ra, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Yên Dũng thực hiện chưa đúng quy định về công tác lưu trữ, bảo quản hồ sơ địa chính (không cung cấp được đầy đủ hồ sơ tài liệu liên quan đến việc cấp GCNQSDĐ), vi phạm quy định tại Điều 23, Điều 29, Điều 30 Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, gây khó khăn cho việc thu thập tài liệu chứng cứ để làm căn cứ giải quyết vụ án của Tòa án, ảnh hưởng trực tiếp đến việc khai thác, cung cấp thông tin khi giải quyết tranh chấp.
Để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh để phòng ngừa vi phạm trong việc lập hồ sơ cấp GCNQSDĐ nói riêng và công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về đất đai tại địa phương; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân; hạn chế thấp nhất việc phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai, Viện trưởng Viện KSND tỉnh Bắc Giang kiến nghị Chủ tịch UBND huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang:
Tăng cường chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm quy định của pháp luật liên quan đến quản lý đất đai; nâng cao hiệu quả hòa giải ở cơ sở đối với các tranh chấp đất đai trên địa bàn.
Chỉ đạo UBND xã Nội Hoàng và UBND xã Cảnh Thụy và các đơn vị có liên quan thực hiện quản lý đối với diện tích đất đã bị hủy GCNQSDĐ theo Bản án; đồng thời hướng dẫn các hộ dân đủ điều kiện thực hiện thủ tục cấp GCNQSDĐ để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sử dụng đất, nâng cao hiệu quả quản lý đất đai theo quy định của pháp luật.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện công tác quản lý đất đai, công tác lập hồ sơ, cấp giấy GCNQSDĐ của các đơn vị có liên quan. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật đất đai đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn./.
Hà Thị Hải- Phòng 9, VKSND tỉnh Bắc Giang