ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Thứ bảy, 23/11/2024 -09:41 AM

Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm do Tòa án xác định sai số tiền án phí đương sự phải chịu

 | 

Nguyên đơn bà Hoàng Thị M và bị đơn ông Nguyễn Xuân N chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2000 nhưng không đăng ký kết hôn. Nay bà M khởi kiện đề nghị Tòa án không công nhận bà và ông N là vợ chồng.

Bà M đã kê khai, bà và ông N có một số tài sản chung và đề nghị Tòa án giải quyết phân chia. Ông N có lời khai không thừa nhận một số tài sản bà M đã kê khai là tài sản chung của ông và bà M. Các đương sự không thống nhất được với nhau về tài sản chung, riêng.

Bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện HH đã xử: Không công nhận bà M và ông N là vợ chồng.

Về tài sản: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà M. Xác nhận nhà 03 tầng, công trình phụ bán mái,01 bộ bàn ghế Đồng Kỵ, 01 tủ thờ khảm trai, 01 sập gụ và quyền sử dụng thửa đất diện tích 89,2m2; quyền sử dụng thửa đất diện tích 142,1m2 đất là tài sản chung của ông N và bà M.

Giao bà M sở hữu tài sản gồm: Nhà 03 tầng, công trình phụ bán mái và quyền sử dụng thửa đất diện tích 89,2m2, nhưng phải có nghĩa vụ thanh toán trả ông N tiền chênh lệch tài sản là 1.500.000.000đ...

Giao ông N sở hữu 01 bộ bàn ghế Đồng Kỵ, 01 tủ thờ khảm trai, 01 sập gụvà quyền sử dụng thửa đất diện tích 142,1m2 và được nhận 1.500.000.000đ tiền chênh lệch tài sản do bà M trả nhưng phải có nghĩa vụ thanh toán trả bà Nguyễn Thị H 100.000.000 đồng ...

Không chấp nhận yêu cầu của bà M đòi xác định thửa đất diện tích 98m2  là tài sản chung của ông N và bà M.   

Không chấp nhận yêu cầu của bà H đòi xác định nhà 3 tầng, công trình phụ bán mái và quyền sử dụng các thửa đất số 327, 168, 116 là tài sản của bà H và ông N.

Bác yêu cầu của ông N đòi bà M trả 120.000.000đ.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà M phải chịu 46.613.800đ ... Ông N phải chịu 45.873.900đ...Bà H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ...

Xem xét nội dung vụ án và việc giải quyết vụ án của TAND huyện HH như đã nêu trên, Viện kiểm sát xét thấy như sau:

Tòa án đã xác định ông N và bà M có các tài sản chung gồm: Thửa đất diện tích 89,2m2 trị giá 2.230.000.000; thửa đất diện tích 142,1m2 trị giá 35.525.000; nhà 03 tầng 785.700.000đ; một bán mái 10.160.000 đồng; 01 bộ bàn ghế Đồng Kỵ, 01 tủ thờ khảm trai, 01 sập gụ trị giá 45.000.000đ. Tổng giá trị tài sản chung: 3.106.385.000đ.

Ông N trình bày, sau khi ông và M sống ly thân, ông đã phải nộp 82.000.000đ tiền chuyển mục đích sử dụng thửa đất có diện tích 89,2m2. Tòa án đã nhận định trích từ tài sản chung để trả cho ông N số tiền này. Nên Tòa đã xác định tài sản chung của ông N và M còn lại để chia là 3.106.385.000đ - 82.000.000đ = 3.024.385.000đ.

Tòa án đã chia cho bà M được sở hữu, sử dụng thửa đất diện tích 89,2m2, nhà 3 tầng, bán mái, có tổng trị giá 3.025.860.000đ. Bà M trả tiền chênh lệch tài sản cho ông N 1.500.000.000đ. Chia cho ông N thửa đất diện tích 142,1m2,01 bộ bàn ghế Đồng Kỵ, 01 tủ thờ khảm trai, 01 sập gụ, tổng trị giá 80.525.000đ. Ông N phải thanh toán trả cho bà H 100.000.000đ. Bà M còn được hưởng 1.525.860.000đ. Ông N còn được hưởng 1.500.000.000đ + 80.525.000đ - 82.000.000đ - 100.000.000đ = 1.398.525.000đ.

Ông N yêu cầu bà M trả ông 120.000.000đ tiền ông bán đất cho M, bà M chưa trả tiền cho ông. Tòa án đã xử bác yêu cầu này của ông N.

Căn cứ quy định tại điểm a, b khoản 5; điểm a khoản 7 Điều 27; khoản 5 Điều 26  Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 thì bà M phải chịu án phí đối với yêu cầu không công nhận bà và ông N là vợ chồng là 300.000đ. Án phí tương ứng với giá trị phần tài sản được chia, bà M phải chịu là 36.000.000đ + (725.860.000đ x 3%) = 57.775.000đ; ông N phải chịu 36.000.000đ + ( 598.525.000đ x 3%) = 53.955.000đ; ông N phải chịu án phí đối với số tiền phải trả bà H 100.000.000đ x 5% = 5.000.000đ; ông N phải chịu án phí đối với yêu cầu bà M trả 120.000.000đ x 5% = 6.000.000đ.

Tổng cộng số tiền án phí dân sự sơ thẩm bà M phải chịu 300.000đ + 57.775.000đ = 58.075.000đ; ông N phải chịu 53.955.000đ + 5.000.000đ + 6.000.000đ = 64.955.000đ. Nhưng Tòa án chỉ xử buộc bà M phải chịu 46.613.800đ. Ông N phải chịu 45.873.900đ là không đúng quy định của pháp luật. Gây thất thu ngân sách Nhà nước 30.544.000đ.

Viện kiểm sát đã ban hành quyết định kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với một phần Bản án sơ thẩm. Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm về phần giải quyết án phí theo hướng phân tích nêu trên./.

Hà Thị Hải- Phòng 9, VKSND tỉnh Bắc Giang

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:31,429,156
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.149.214.223

    Thư viện ảnh