ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát do Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết án phí không đúng quy định

 | 

Ngày 21/6/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án “Tranh chấp hôn nhân gia đình” giữa nguyên đơn chị Trần Thị N với bị đơn anh Lê Văn H. Ngoài ra trong vụ án còn có 12 người tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Bản án sơ thẩm số 10/2022/HNGĐ-ST ngày 24/01/2022 của Tòa án nhân huyện Lục Nam đã giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Trong đó có giải quyết:

- Giao cho anh Lê Văn H sở hữu 01 tivi nhãn hiệu Samsung TU801, 55 in; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave màu xanh-đen-bạc BKS 98F1-247.30 đăng ký xe tên Lê Văn Hùng. Anh H phải trích trả chị N 12.400.000đ.

- Giao cho anh Nguyễn Văn C, chị Lê Thị M (là 02 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án) sở hữu nhà 02 tầng, diện tích 148m2 và Ki ốt nối liền đằng trước ngôi nhà, diện tích 22,5m2 và toàn bộ tài sản khác trên thửa đất 402, tờ bản đồ 36 tại thôn Nghè 1, xã Tiên Nha, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh Nguyễn Văn C, chị Lê Thị M...

Anh C, chị M phải trả cho chị N và anh H mỗi người 302.431.000đ.

Về nghĩa vụ chung đối với tài sản:

- Chị N, anh H mỗi người phải trả Ngân hàng Chính sách - xã hội Việt Nam - Phòng giao dịch huyện Lục Nam 25.000.000 đồng tiền gốc, tiền lãi ...

 Về án phí: Chị N phải chịu 10.516.550 đồng tiền án phí hôn nhân gia đình và dân sự sơ thẩm. Hoàn trả anh H 1.383.450 đồng tiền tạm ứng án phí...

Xem xét việc giải quyết phần án phí của Tòa án cấp sơ thẩm, Viện KSND tỉnh Bắc Giang thấy như sau:

Tòa án đã xác định chị N và anh H có tài sản chung gồm: 01 xe mô tô trị giá 14.400.000đ; 01 tivi trị giá 10.400.000đ; 01 ngôi nhà 02 tầng trị giá 588.744.000đ;  01 kiốt 16.118.000đ. Tổng giá trị tài sản là 629.662.000đ. Chị N, anh H có khoản nợ chung là nợ Ngân hàng chính sách 50.000.000đ.

 Tòa án đã giải quyết phân chia cho chị N, anh H mỗi người được hưởng ½ giá trị tài sản chung 314.831.000đ và phải trả ½ số nợ chung cho Ngân hàng  25.000.000đ.

Căn cứ quy định tại điểm b khoản 7 Điều 27Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Đương sựphải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần tài sản họ được chia sau khi trừ đi giá trị tài sản thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba; các đương sự phải chịu một phần án phí ngang nhau đối với phần tài sản thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba theo quyết định của Tòa án.

Số tài sản được chia, sau khi trừ đi số tiền phải trả cho Ngân hàng thì chị N, anh H mỗi người còn được hưởng số tài sản trị giá 314.831.000đ – 25.000.000đ  = 289.831.000đ. Chị N, anh H mỗi người phải chịu số tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với phần tài sản được chia 289.831.000đ x 5% = 14.491.000đ và mỗi người phải chịu án phí đối với số tài sản phải thực hiện nghĩa vụ là (50.000.000đ x 5%) : 2 = 1.250.000đ. Tổng cộng mỗi người phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 14.491.000đ +  1.250.000đ = 15.741.000đ.

Nhưng Tòa án lại nhận định chị N, anh H mỗi người phải chịu án phí đối với tài sản được chia; án phí của khoản nợ phải trả 15.741.550đ + 1.250.000đ = 16.991.550đ là mỗi người phải chịu án phí nhiều hơn so với quy định của pháp luật là 1.250.000đ.

Tại phần nhận định của Bản án, Tòa án có nhận định số tiền án phí chị N, anh H mỗi người phải chịu là 17.066.550đ; đối trừ số tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp 6.550.000đ, anh H đã nộp 18.450.000đ thì chị N còn phải chịu số tiền án phí là 10.516.550đ; anh H còn được hoàn trả số tiền 1.383.450đ. Nhưng tại phần quyết định của Bản án, Tòa án không tuyên buộc chị N, anh H mỗi người phải chịu tổng số tiền án phí là bao nhiêu; đối trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp thì còn phải nộp hoặc được hoàn trả số tiền là bao nhiêu mà Tòa án chỉ tuyên là  chị N phải chịu 10.516.550đ tiền án phí hôn nhân gia đình và dân sự sơ thẩm. Hoàn trả anh H 1.383.450đ tiền tạm ứng án phí là không đúng quy định tại điểm c khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự.

Do Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm, thiếu sót trong việc giải quyết án phí như đã nêu trên, nên ngày 22/02/2022 Viện KSND tỉnh Bắc Giang có quyết định số 03/QĐKNPT-VKS-HNGĐ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm về phần giải quyết án phí.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn chị N không rút đơn khởi kiện, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và đều đồng ý với kháng nghị của Viện kiểm sát. Kiểm sát viên, Viện KSND tỉnh Bắc Giang tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định kháng nghị. Hội đồng xét xử đã chấp nhận kháng nghị của Viện KSND tỉnh Bắc Giang. Áp dụng khoản 2 Điều 308; Điều 309 Bộ LTTDS sửa Bản án sơ thẩm; buộc chị Trần Thị N, anh Lê Văn H mỗi người phải chịu 75.000đ án phí ly hôn và 15.741.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với tài sản được chia và án phí đối với nghĩa vụ phải trả nợ./.

Nguyễn Thị Tuyết- Phòng 9, VKSND tỉnh Bắc Giang

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:36,573,912
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.16.149.35