.

Thứ năm, 04/07/2024 -06:24 AM

Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm của Tòa án

 | 

Ngày 27/10/2021 TAND tỉnh B đã ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính số 26/2021/QĐST-HC (viết tắt là Quyết định đình chỉ số 26) về “Khiếu kiện quyết định hành chính” giữa người khởi kiện là ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị L (vợ ông A) với người bị kiện là UBND huyện Y, tỉnh B.

Theo lời trình bày của người khởi kiện: Cụ Nguyễn Thị X là mẹ đẻ của ông A (chết năm 1990), chồng là cụ Nguyễn Văn S chết năm 1948. Cụ X sinh được 03 người con là Nguyễn Văn A, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Đ. 

Cụ X có quyền sử dụng đất là thửa số 269 và thửa đất số 270 cùng tờ bản đồ số 02, tổng diện tích là 1.321m2. Khi còn sống cụ X có lập “Tờ trình giao quyền thừa kế ghi ngày 17/7/1990” và “Biên bản tách thổ cư ghi ngày 17/7/1990” được UBND xã H, huyện Y, tỉnh B xác nhận cùng ngày, có nội dung: Ông Đ được 667m2 đất (không có ao), còn lại của cụ X là 654m2 (514m2 đất vườn + 105m2 đất ao + 35m2 quán bán hàng), cụ X giao cho ông A (vợ là bà L) diện tích đất này và giao trách nhiệm hương nhang thờ cúng mẹ khi về già.

Năm 1998 ông Đ xảy ra tranh chấp đất với ông A nhưng đã hòa giải thành và thỏa thuận sẽ chia cho ông A 400m2 đất là di sản thừa kế do mẹ để lại. Sau đó ông A đã cho ông T 200m2 đất ở (có hợp đồng tặng cho ngày 28/9/2011) và ông T được UBND huyện Y cấp GCNQSD đất số BG 246644 ngày 10/12/2011.

Ngày 27/10/2000 UBND huyện Y cấp GCNQSD đất số Q036207 diện tích 1.092m2 cho hộ ông Đ và ngày 30/10/2014 cấp đổi GCNQSD đất số BX 814691 cho hộ ông Đ và bà Lê Thị S diện tích 1.269,9m2 (viết tắt là GCNQSD đất tên ông Đ).

Ngày 26/11/2019 ông A và vợ là bà L biết hộ gia đình ông Đ được cấp GCNQSD đất tên ông Đ. Ông A và bà L không nhất trí với quyết định cấp GCNQSD đất của UBND huyện Y cho hộ gia đình ông Đ nên ngày 11/6/2020 đã khởi kiện ra TAND tỉnh B. 

Ngày 11/6/2020 TAND tỉnh B đã tiếp nhận đơn khởi kiện của ông A và bà L yêu cầu TAND tỉnh B hủy GCNQSD đất tên ông Đ.

Ngày 15/6/2020 TAND tỉnh B ban hành Thông báo số 06 yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện (giao cho bà L ngày 02/12/2020). Đến ngày 25/12/2020 Thông báo trả lại đơn khởi kiện số 15/TB trả lại đơn khởi kiện cho bà L với lý do: Đơn khởi kiện chưa có chữ ký của người khởi kiện (giao cho bà L ngày 25/12/2020). 

Ngày 27/01/2021 bà L và ông A có đơn khởi kiện và được TAND tỉnh B xác nhận nhận đơn khởi kiện số 06 ngày 27/01/2021, giấy báo đến Tòa án để tiến hành lập biên bản làm việc liên quan đến việc khởi kiện nêu trên số 45 ngày 18/3/2021. Ngày 24/3/2021 bà L có đơn xin rút yêu cầu khởi kiện (lý do rút đơn: Về củng cố giấy tờ, tài liệu và bổ sung người bị kiện), cùng ngày bà L và ông A lại có đơn khởi kiện và ngày 28/6/2021 TAND tỉnh B đã thụ lý vụ án số 18/TLVA-HC. 

Sau khi thụ lý, thu thập tài liệu chứng cứ. Ngày 27/10/2021 TAND B đã căn cứ khoản 5 Điều 38, điểm a khoản 2 Điều 116, điểm g khoản 1 Điều 143 và Điều 144 của Luật tố tụng hành chính (viết tắt là LTTHC) ban hành Quyết định đình chỉ số 26, lý do đình chỉ: “Ông Nguyễn Văn A là người khởi kiện trong vụ án đã biết gia đình ông Nguyễn Văn Đ được cấp GCNQSD đất ngày 26/11/2019 nhưng đến ngày 26/3/2021 mới có đơn khởi kiện gửi đến Tòa án nhân dân tỉnh B, đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 LTTHC. Bà Nguyễn Thị L không có quyền khởi kiện đối với tài sản của ông Nguyễn Văn A được thừa kế riêng nên không có quyền khởi kiện trong vụ án”.

Ngày 04/12/2021 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B nhận được quyết định đình chỉ này của Tòa án.

Qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính nêu trên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B nhận thấy TAND tỉnh B có những vi phạm, thiếu sót như sau:

Thứ nhất, trong việc xác định quyền khởi kiện: Cụ X là mẹ của ông A, ông Đ có lập “Tờ trình giao quyền thừa kế ghi ngày 17/7/1990” và “Biên bản tách thổ cư ghi ngày 17/7/1990” được UBND xã H xác nhận cùng ngày, có nội dung: Ông Đ được 667m2 đất (không có ao), còn lại của cụ X là 654m2, cụ X giao cho ông A (vợ là bà L) diện tích đất này và giao trách nhiệm hương nhang thờ cúng mẹ khi về già. Năm 1998 ông Đ xảy ra tranh chấp đất với ông A nhưng đã hòa giải thành và thỏa thuận sẽ chia cho ông A 400m2 đất là di sản thừa kế do mẹ để lại. Ông A cho rằng chưa thỏa thuận về diện tích đất còn lại mà ông A, bà L được hưởng (254m2) theo di chúc nên ông A có quyền khởi kiện quyết định cấp GCNQSD đất liên quan đến diện tích đất mà cụ X để lại. Ông A, bà L là vợ chồng và cùng ký vào các đơn khởi kiện; ông A lại có Giấy ủy quyền cho bà L vì vậy bà L cũng có quyền khởi kiện. 

Thứ hai, về việc xác định thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính: Quyết định đình chỉ số 26 phần xét thấy nêu: “ông Nguyễn Văn A là người khởi kiện trong vụ án đã biết gia đình ông Nguyễn Văn Đ được cấp GCNQSD đất ngày 26/11/2019 nhưng đến ngày 26/3/2021 mới có đơn khởi kiện gửi đến Tòa án nhân dân tỉnh B, đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính” để đình chỉ giải quyết vụ án hành chính là không đảm bảo quyền lợi của ông A và bà L vì: 

Từ ngày 26/11/2019 người khởi kiện là bà L và ông A biết hộ gia đình ông Đ được cấp GCNQSD đất tên ông Đ. Đến ngày 11/6/2020 bà L và ông A khởi kiện ra TAND tỉnh B yêu cầu hủy GCNQSD đất trên (cùng ngày Tòa án đã tiếp nhận đơn khởi kiện) là trong thời hiệu khởi kiện đối với quyết định hành chính theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 LTTHC (01 năm). Đến ngày 15/6/2020 Tòa án ban hành Thông báo số 06 yêu cầu bà L sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện nhưng đến ngày 02/12/2020 mới giao cho bà L. Tính đến ngày nhận được Thông báo sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện và Thông báo trả lại đơn khởi kiện ngày 25/12/2020 bà L, ông A đã hết thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là do lỗi của TAND tỉnh B chậm xử lý đơn khởi kiện (Điều 120, 121, 122, 123 LTTHC) chứ không phải do lỗi của ông A và bà L. 

Bên cạnh đó, ngay sau khi nhận được thông báo trả lại đơn khởi kiện, trong các ngày 27/01/2021, 18/3/2021 bà L tiếp tục có đơn khởi kiện, Tòa án tiếp nhận nhưng không xử lý đơn khởi kiện. Ngày 24/3/2021 bà L vẫn tiếp tục có đơn khởi kiện và ngày 12/4/2021 có đơn khởi kiện bổ sung, đến ngày 28/6/2021 mới được TAND tỉnh B thông báo thụ lý vụ án và tiến hành giải quyết là trong thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính.

Thứ ba, về việc áp dụng thiếu điều luật: Quyết định đình chỉ số 26 của TAND tỉnh B phần “xét thấy” nhận định bà L không có quyền khởi kiện trong vụ án nhưng không viện dẫn điểm h khoản 1 Điều 143; điểm a khoản 1 Điều 123 LTTHC năm 2015.

Thứ tư, trong việc gửi Quyết định: TAND tỉnh B ban hành quyết định đình chỉ số 26 từ ngày 27/10/2021 nhưng đến ngày 04/12/2021 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B mới nhận được quyết định đình chỉ này của Tòa án (Tòa án gửi chậm 35 ngày, thực hiện không đúng quy định tại khoản 2 Điều 145 LTTHC).

Ngoài ra còn có một số vi phạm về thủ tục tố tụng như:

Ông A là thương binh (có thẻ thương binh và đề nghị được Tòa án trợ giúp pháp lý) nhưng quá trình giải quyết tại Tòa án, Thẩm phán không thực hiện việc giải thích về quyền được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý cho ông A là thực hiện không đúng quy định của Luật trợ giúp pháp lý năm 2017 và Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BAC-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 29/6/2018 quy định về phối hợp trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng, không đảm bảo quyền lợi cho ông A.

TAND tỉnh B thụ lý vụ án ngày 28/6/2021 đến khi có quyết định đình chỉ ngày 27/10/2021, trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm (04 tháng) Thẩm phán không tiến hành đối thoại, thông báo và mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ cho đương sự theo quy định tại khoản 1 Điều 134; 136, 137, 138 LTTHC năm 2015.

Ngày 08/9/2021 bà L ủy quyền cho bà Nguyễn Thị B tham gia tố tụng và được Phó chủ tịch UBND xã H, huyện Y chứng thực chữ ký trong giấy ủy quyền. Tuy nhiên Tòa án không đưa bà B tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo ủy quyền của bà L và không tiến hành tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền lợi của bà L, bà B.

Do đó Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B đã kháng nghị phúc thẩm toàn bộ Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm số 26/2021/QĐST-HC ngày 27/10/2021 của TAND tỉnh B. Đề nghị Toà án nhân dân cấp cao xét xử phúc thẩm theo hướng: Hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm số 26/2021/QĐST-HC ngày 27/10/2021 của TAND tỉnh B, chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án./.

Lương Bích Hảo - Phòng 10

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:28,358,286
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:18.191.233.122

    Thư viện ảnh