Nguyên đơn ông Đông trình bày:Ngày 11/12/2013 ông Đông và bà Thư đã xác lập hợp đồng vay tài sản. Nội dung bà Thư vay của ông Đông 80.000.000đ; vay có lãi, nhưng không xác định cụ thể mức lãi suất và vay không thời hạn. Sau khi vay bà Thư đã trả được cho ông Đông 3.840.000đ tiền lãi.
Bị đơn bà Thư cho rằng có vay tiền của ông Đông nhưng đã trả hết, không còn nợ, nhưng không có chứng cứ chứng minh về việc đã trả hết nợ cho ông Đông.
Do bà Thư vi phạm nghĩa vụ thanh toán trả tiền, nên việc ông Đông khởi kiện yêu cầu bà Thư trả 80.000.000đ tiền gốc và tiền lãi theo quy định của pháp luật tính từ ngày vay đến ngày xét xử sơ thẩm trừ đi số tiền lãi đã trả 3.840.000đ là có căn cứ đúng quy định tại Điều 463, khoản 2 Điều 468, khoản 2 Điều 469 Bộ luật dân sự năm 2015; điểm c khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và xác định quan hệ pháp luật các đương sự tranh chấp trong vụ án là tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Số tiền lãi bà Thư phải trả cho ông Đông tính từ ngày 11/12/2013 đến ngày 31/12/2016 được áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 để giải quyết là 80.000.000đ x 0,75% x 36 tháng 20 ngày = 22.000.000đ.
Tiền lãi từ ngày 01/01/2017 đến ngày 29/9/2020 được áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 để giải quyết là 80.000.000đ x 0,83% x 44 tháng 28 ngày = 29.835.000đ.
Tổng cộng số tiền lãi bà Thư phải trả ông Đông là 51.835.000đ. Bà Thư đã trả 3.840.000đ. Bà Thư còn phải trả cho ông Đông 47.995.000đ tiền lãi.
Ông Đông và bà Thư ký kết hợp đồng vay tài sản không có kỳ hạn. Trước khi Tòa án xét xử vụ án các đương sự đều không yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện, nên căn cứ khoản 2 Điều 184 Bộ LTTDS Tòa án không phải xem xét về thời hiệu khởi kiện của ông Đông.
Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại nhận định cho rằng ông Đông đòi tiền bà Thư từ khoảng tháng 5/2014, bà Thư không trả là thời điểm quyền và lợi ích của ông Đông bị xâm phạm. Đến tháng 11/2019 ông Đông mới khởi kiện là hết thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản, ông Đông chỉ có quyền đòi lại số tiền 80.000.000đ là không đúng với nội dung hợp đồng; không đúng quy định tại Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự. Việc Tòa án xác định quan hệ pháp luật các đương sự tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp đòi tài sản” và xử buộc bà Thư trả ông Đông 80.000.000đ tiền gốc; bác yêu cầu của ông Đông đòi bà Thư tiền lãi của số tiền 80.000.000đ tính từ ngày 11/12/2013 đến khi xét xử sơ thẩm theo mức lãi suất quy định của pháp luật và buộc ông Đông phải chịu 2.256.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu đòi tiền lãi không được chấp nhận là không có căn cứ, không đúng pháp luật, không đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho ông Đông.
Do Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm, thiếu sót như nêu trên, nên nguyên đơn đã kháng cáo và Viện kiểm sát đã quyết định kháng nghị phúc thẩm một phần Bản ánsơ thẩm, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa bản ánsơ thẩm,xác định quan hệ tranh chấp là tranh chấp hợp đồng vay tài sản và buộc bà Thư phải trả tiền lãi cho ông Đông, sửa phần giải quyết án phí.
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo, nhất trí với kháng nghị của Viện kiểm sát. Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung quyết định kháng nghị. Tòa án đã xét xử phúc thẩm chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn và kháng nghị của Viện kiểm sát, sửa bản án sơ thẩm./.
Nguyễn Thị Tuyết- Phòng 9