.

Thứ sáu, 26/04/2024 -11:23 AM

Tòa án chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện kiểm sát, sửa bản án sơ thẩm do Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết phân chia tài sản chung vợ chồng không công bằng

 | 

Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình và Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 6/01/2016 đã quy định, hướng dẫn về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn là tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố: Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung; Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch... Nhưng có vụ án khi giải quyết phân chia tài sản chung vợ chồng, Tòa án đã không thực hiện đúng theo quy định, hướng dẫn nêu trên, dẫn đến việc bản án sơ thẩm bị đương sự kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị.

Hà Duy X kết hôn với bà Giáp Thị H từ năm 1978. Sau quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, ông X khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà H. Bà H không đồng ý ly hôn.

Ông  X và bà H có 03 con chung là anh Hà Duy T, anh Hà Duy H và chị Hà Thị Thu H đều đã thành niên và tự lo cho bản thân được nên ông X không đề nghị Tòa án giải quyết. Bà H đề nghị giao cháu H cho bà quản lý, ông X đồng ý.

Ông X và bà H đều thừa nhận ông bà đã cùng lao động, tạo dựng được một số tài sản chung và đề nghị Tòa án giải quyết phân chia tài sản gồm: 02 thửa đất có tổng diện tích 600 m2 đều đã được UBND huyện Lục Ngạn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tổng trị giá hai thửa đất là 2.000.000.000đ (theo định giá của Hội đồng định giá). Ngoài ra, ban đầu ông X còn đề nghị Tòa án giải quyết buộc bà H phải trả cho ông 500.000.000đ tiền vốn kinh doanh cám, gạo là tài sản chung của vợ chồng. Sau đó ông X rút yêu cầu này.

Với nội dung vụ án nêu trên, Bản án sơ thẩm số 75/2018/HNGĐ-ST ngày 28/11/2018 của TAND huyện Lục Ngạn đã giải quyết cho nguyên đơn ông Hà Duy X được ly hôn bị đơn bà Giáp Thị H. Giao cho bà H quản lý chị Hà Thị Thu H, sinh năm 1984. Chia cho ông X được sử dụng 300m2 đất trị giá 1.500.000.000đ. Bà H được sử dụng 300m2 trị giá 500.000.000đ. Ông X phải thanh toán trả cho bà H số tiền 350.000.000đ do phần đất ông X được chia có giá trị cao hơn so với phần đất bà H được chia.

Sau khi Tòa án xét xử sơ thẩm, bà H có đơn kháng cáo không đồng ý đối với việc Tòa án giải quyết phân chia tài sản chung của bà với ông X.

Thông qua công tác kiểm sát bản án nêu trên, Viện KSND tỉnh Bắc Giang thấy:

Trong quá trình chung sống ông X và bà H đã tạo dựng được khối tài sản chung có trị giá 2.000.000.000đ và đề nghị Tòa án giải quyết phân chia. Ông X và bà H có công sức ngang nhau trong việc tạo lập khối tài sản chung này. Tòa án đã nhận định tài sản chung của ông X bà H cần chia đều cho ông X bà H. Nhưng Tòa án lại giải quyết chia cho bà H sử dụng 300m2 đất trị giá 500.000.000đ; cho ông X sử dụng 300m2 đất trị giá 1.500.000.000đ. Ông X thanh toán trả tiền chênh lệch tài sản cho bà H 350.000.000đ. Tài sản chung ông X được chia là 1.150.000.000đ; bà H được chia là 850.00.000đ. Ông X được hưởng phần tài sản có giá trị nhiều hơn bà H là 300.000.000đ. Như vậy, giữa nhận định và quyết định giải quyết về phần tài sản của Tòa án mâu thuẫn nhau, giải quyết phân chia tài sản chung không đúng quy định tại khoản 2 Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình, không công bằng và không đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của người phụ nữ sau ly hôn là bà H.

Ngoài ra, khi giải quyết vụ án Tòa án còn có những vi phạm thiếu sót như sau:

Trong quá trình giải quyết vụ án ông X đã yêu cầu và Tòa án đã thông báo thụ lý việc ông X yêu cầu bà H phải trả cho ông X 500.000.000đ tiền vốn kinh doanh cám, gạo là tài sản chung của vợ chồng. Sau đó ông X rút yêu cầu này. Toà án đã nhận định không xem xét giải quyết yêu cầu này của ông X. Nhưng tại phần quyết định của bản án, Tòa án không quyết định đình chỉ giải quyết việc ông X yêu cầu bà H phải trả 500.000.000đ là không đúng quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự.

Con của ông X bà H là chị H sinh năm 1984, đã thành niên, không mất năng lực hành vi dân sự, có khả năng lao động. Việc bà H yêu cầu và việc Tòa án giải quyết giao cho bà H quản lý chị H là không đúng quy định tại khoản 1 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.  

Ngày 19/3/2019 TAND tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa phúc thẩm xét xử vụ án nêu trên. Tại phiên tòa, nguyên đơn là ông X vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn bà H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Tòa án giải quyết phân chia lại tài sản đảm bảo quyền lợi cho bà. Viện KSND tỉnh Bắc Giang giữ nguyên nội dung quyết định kháng nghị.

Sau khi xem xét tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, ý kiến trình bày của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm và ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử phúc thẩm TAND tỉnh Bắc Giang xét thấy những nội dung Viện KSND tỉnh Bắc Giang kháng nghị và việc bà H kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên đã xử chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện kiểm sát và chấp nhận kháng cáo của bà H, áp dụng khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự sửa bản án sơ thẩm. Trong đó đã giải quyết phân chia lại tài sản chung, chia đều cho ông X và bà H mỗi người được hưởng phần tài sản có giá trị bằng nhau là 1.000.000.000đ./.

Lương Thất Tùng- Phòng 9

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:27,763,285
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.142.53.68

    Thư viện ảnh