.

Thứ tư, 01/05/2024 -23:37 PM

Tòa án “quên” thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai ?

 | 

Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình. Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành, nếu tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có các loại giấy tờ hợp pháp theo quy định, thì do Tòa án nhân dân giải quyết, nếu không có các loại giấy tờ đó, thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai là nộp đơn yêu cầugiải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền (là cấp huyện hoặc cấp tỉnh) hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định tại các Điều 202, 203 Luật Đất đai năm 2013.

Qua thực tiễn công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, nhìn chung các Tòa án cấp sơ thẩm đều đã giải quyết theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn có những quan điểm, nhận thức khác nhau hoặc có sai sót trong việc xác định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, dẫn đến việc giải quyết vụ án có vi phạm nghiêm trọng. Dưới đây là một vụ án cụ thể:

Tháng 4/1995, ông Đồng Văn N chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn R 375m2 đất tại thửa số 134 theo bản đồ đo đạc năm 1979 địa chỉ thôn M, xã C, huyện L. Về nguồn gốc đất, hộ ông N được UBND xã C giao ngày 16/7/1994 và cùng ngày 16/7/1994 hộ ông Đồng Văn G cũng được UBND xã C giao cho 400m2 đất liền kề với thửa đất của hộ ông N. Sau khi được giao đất, ông G đã xây tường để phân định ranh giới giữa hai thửa đất.

Năm 2015, ông G cho rằng diện tích đất của ông R được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 468,4m2, tăng lên so với diện tích đất được giao năm 1994 nên đã khiếu nại đến UBND xã C đề nghị giải quyết. Tại Báo cáo kết luận số 29/BC-UBND ngày 13/8/2015 của Chủ tịch UBND xã C, có nội dung: “a) Hộ ông G được sử dụng 100m2, thiếu 20m2 so với thôn, xã giao năm 1994; b) Hộ ông N (R) được sử dụng 368,4m2, thiếu 6,6m2 so với thôn, xã giao năm 1994".

Không đồng ý với việc giải quyết của Chủ tịch UBND xã C, ông R có đơn khiếu nại. Đến ngày 12/10/2015, ông R nhận được Báo cáo kết luận số 36/BC-UBND ngày 06/10/2015 của Chủ tịch UBND xã C, có nội dung: “Giữ nguyên Báo cáo kết luận số 29/BC-UBND ngày 13/8/2015. Điều chỉnh lại phần biện pháp giải quyết như sau: a) Hộ ông G được sử dụng 93,4m2 đất, thiếu 26,6m2 đất so với thôn, xã giao năm 1994; b) Hộ ông N (R) được sử dụng 375,0m2 đủ so với diện tích mà thôn, xã giao năm 1994".

Đến ngày 11/12/2015, UBND xã C tổ chức lực lượng đến phần đất đang có tranh chấp để phá tường, chặt cây, chăng dây, đóng cọc, giao cho hộ ông G 93,4m2 đất (lấy từ đất của ông R). Ngày 15/12/2015, ông R nhận được Báo cáo số 47/BC-UBND ngày 14/12/2015 của Chủ tịch UBND xã C về việc giải quyết đơn của ông G giữ nguyên các Báo cáo kết luận số 29 và 36 nêu trên.

Ông R không đồng ý và ngày 17/12/2015 đã làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết: Hủy các Báo cáo kết luận số 29, số 36 và số 47 nêu trên của Chủ tịch UBND xã C; buộc Chủ tịch UBND xã C phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 202, 203 Luật Đất đai năm 2013; tuyên bố hành vi của Chủ tịch UBND xã C ký các Báo cáo kết luận số 29, số 36 và số 47 là trái pháp luật và yêu cầu bồi thường thiệt hại số tiền 90.000.000 đồng (ông R có nộp cho Tòa án tài liệu, danh sách thống kê thiệt hại về tài sản, kinh tế).

Ngày 14/01/2016, Tòa án thụ lý vụ án. Ngày 12/8/2016, Tòa án có Thông báo sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, yêu cầu ông R xác định đúng người khởi kiện là UBND xã C và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (nếu có). Đặc biệt là những vấn đề cụ thể về việc bồi thường thiệt hại.

Ông R không chấp nhận nội dung Thông báo này của Tòa án. Ngày 30/9/2016, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm h khoản 1 Điều 143, các Điều 144, 145, 204, 205, khoản 2 Điều 206 Luật TTHC ra Quyết định số 04/2016/QĐHC-ST đình chỉ giải quyết vụ án hành chính. Ông R đã kháng cáo.

Ngày 11/01/2017, Tòa án cấp phúc thẩm đã mở phiên họp quyết định hủy  Quyết định số 04/2016/QĐHC-ST của Tòa án cấp sơ thẩm, do có những vi phạm nghiêm trọng như sau: Ngày 11/01/2016, Tòa án nhận đơn khởi kiện của ông R, nhưng đến ngày 12/8/2016 (sau hơn 7 tháng) mới có Thông báo về việc sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện gửi ông R là vi phạm Điều 107 Luật TTHC năm 2010, nay là Điều 121 Luật TTHC năm 2015. Nội dung đơn khởi kiện của ông R đề nghị Tòa án giải quyết là rất rõ ràng, cụ thể về đối tượng khởi kiện, về tài liệu và thống kê số tiền bồi thường thiệt hại. Chủ tịch UBND xã C chỉ có thẩm quyền hòa giải tranh chấp đất đai, mà không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai được quy định tại Điều 202, 203 Luật Đất đai năm 2013. Do Chủ tịch UBND xã C giải quyết đơn khiếu nại của ông G đã lấy đất của ông R giao cho ông G, nên ông R khởi kiện Chủ tịch UBND xã C là đúng. Do vậy, việc Tòa án yêu cầu ông R sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện là không đúng quy định tại Điều 118, 122 Luật TTHC năm 2015.

Hoàng Đức Trình- Phòng 10

 

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:27,809,878
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.141.30.162

    Thư viện ảnh