.

Thứ bảy, 20/04/2024 -16:48 PM

Cơ quan thi hành án dân sự huyện L ra Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án đối với Nguyễn Duy H có đúng không?

 | 

Nội dung: Ngày 04/5/2020, Chi cục thi hành án dân sự (THAHS) huyện L ra Quyết định thi hành án chủ động số 130/QĐ-CCTHADS đối với Nguyễn Duy H. Khoản phải thi hành: Án phí HSST: 200.000 đồng; tang vật: Trả lại Nguyễn Duy H 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C số 310125008613 do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 09/01/2017 mang tên Nguyễn Duy H.

Quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên đã tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của H thấy: H đang bị Cơ quan CSĐT huyện L truy nã, hiện không có mặt tại địa phương. Về tài sản: Tại địa phương H không có tài sản gì.

Đối với khoản án phí HSST: 200.000 đồng của H, quá trình tổ chức thi hành án người thân của H đã tự nguyện nộp thay H.

Ngày 17/9/2020, Chi cục thi hành án dân sự huyện L đã căn cứ điểm c khoản 1 Điều 44a Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 ra Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án đối với H. Khoản chưa có điều kiện thi hành: Trả lại Nguyễn Duy H 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C số 310125008613 do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 09/01/2017 mang tên Nguyễn Duy H.

Hiện nay có 02 quan điểm khác nhau về việc Chi cục THADS huyện L ra Quyết định về việc chưa có điều kiện đối với H.

Quan điểm thứ nhất: Điểm c khoản 1 Điều 44a Luật THADS quy định: Căn cứ kết quả xác minh điều kiện thi hành án, Thủ trưởng Cơ quan THADS ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: “… c, Chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án, người chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng.

Do đây là quyết định thi hành án chủ động nên phải hiểu đương nhiên H là người phải thi hành án, mặt khác do chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của H (vì H đang bỏ trốn và bị truy nã) nên Chi cục thi hành án dân sự huyện L ra quyết định về việc chưa có điều kiện đối với H là đúng.

Quan điểm thứ hai: Điều luật đã nêu rõ điểm c khoản 1 Điều 44a Luật THADS chỉ được áp dụng đối với người phải thi hành án. Mặt khác, khoản 2,3 Điều 3 Luật THADS quy định:

2. Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích trong bản án, quyết định được thi hành

3. Người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành.

Việc xác định người được thi hành án và người phải thi hành án phải căn cứ vào nội dung trong bản án, quyết định thi hành án và đối với nội dung khoản chưa có điều kiện thi hành án trên thì H phải là người được thi hành án. Do vậy, Chi cục thi hành án dân sự huyện L ra Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án đối với H là sai.

Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai, rất mong nhận được sự nghiên cứu, trao đổi của các đồng nghiệp./.

Hoàng Văn Tùng- Viện KSND huyện Lục Nam

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:27,702,248
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.142.195.24

    Thư viện ảnh