Thông qua công tác kiểm sát bản án sơ thẩm của Tòa án cấp huyện, ngày 15/3/2016 Viện kiểm sát nhân tỉnh Bắc Giang đã ban hành Quyết định kháng nghị số 01/QĐKNPT-DS đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2016/DSST ngày 19/02/2016 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án dân sự sơ thẩm số09/2016/DSST ngày 19/02/2016 của TAND huyện Hiệp Hòa đã giải quyết vụ án "Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất" giữa nguyên đơn là ông Dương Văn Chí, sinh năm 1957, có địa chỉ ở số 69, đường Trường Chinh, thị trấn Thắng, Hiệp Hòa, Bắc Giang. Bị đơn là anh Nguyễn Anh Chung, sinh ngày 1978 có địa chỉ ở Khu 3, thị trấn Thắng, Hiệp Hòa, Bắc Giang. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Vũ Thị Huệ, sinh năm 1960 (là vợ và ở cùng địa chỉ với ông Chí, ủy quyền cho ông đại diện). Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên đã áp dụng khoản 3 Điều 25, Điều 131, Điều 142, Điều 245, Điều 199, Điều 202 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 697; Điều 698 Bộ luật dân sự. Điều 95, 99, 168, 169 Luật đất đai. Xử: Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa ông Chí và anh Chung lập ngày 01/8/2011. Ông Chí được quyền sử dụng đất (thửa số 115, tờ bản đồ số 11 tại số 30 đường Trường Chinh, thị trấn Thắng, Hiệp Hòa theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 868116 cấp ngày 26/12/2001 mang tên anh Nguyễn Anh Chung) và sở hữu nhà ở gắn liền với thửa đất đó, nhưng ông Chí phải hoàn tất các thủ tục sang tên trước bạ, đăng ký quyền sử dụng đất tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền...
Qua xem xét bản án thấy rằng: Theo ông Chí trình bày, ngày 01/8/2011 ông và anh Chung đã thỏa thuận ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (nhà ở), thửa số 115 thuộc tờ bản đồ số 11 diện tích 103,5m2 tại địa chỉ số nhà 30 đường Trường Chinh, thị trấn Thắng, Hiệp Hòa, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 868116 cấp ngày 26/12/2001 mang tên Nguyễn Anh Chung, với giá chuyển nhượng là 450.000.000đ. Ngày 01/10/2011 ông và anh Chung tiếp tục làm giấy chuyển nhượng đất ở viết tay cũng với nội dung anh Chung để lại cho ông thửa đất ở diện tích 103,5m2 nêu trên với giá 450.000.000đ; anh Chung đã viết giấy nhận đủ tiền, giao đất, nhà ở và giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất nêu trên cho ông sử dụng. Từ đó đến nay ông đã nhiều lần tìm gặp để đôn đốc, yêu cầu anh Chung ra Ủy ban nhân dân thị trấn Thắng làm các thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất mang tên ông nhưng anh Chung có thái độ lẩn trách, cố tình không gặp mặt, gây khó khăn cản trở cho ông trong việc làm thủ tục đăng ký. Ông đã làm đơn đề nghị Ủy ban nhân dân thị trấn Thắng giải quyết, tiến hành hòa giải nhưng anh Chung đều vắng mặt. Ngày 11/6/2013 ông Chí có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa ông và anh Chung (ở địa chỉ tại Khu 3, thị trấn Thắng, Hiệp Hòa, Bắc Giang - viết tắt là Khu 3), để ông được thực hiện các thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất đối với diện tích đất nhận chuyển nhượng (ông chấp nhận diện tích đo thực tế là 94m2). Ngày 28/02/2014 Tòa án đã thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện của ông Chí. Tòa án đã xác định bị đơn là anh Chung có địa chỉ ở Khu 3.
Nhưng tại thời điểm ông Chí khởi kiện, Tòa án thụ lý vụ án và trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án thì anh Chung không có mặt tại địa chỉ Khu 3 (địa chỉ do ông Chí cung cấp); địa chỉ hiện anh Chung đang cư trú ông Chí không cung cấp được. Tòa án đã làm thủ tục thông báo tìm kiếm người vắng mặt nơi cư trú đối với anh Chung, nhưng anh Chung không đến Tòa án làm việc, không gửi văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện. Đây thuộc trường hợp phải trả lại đơn khởi kiện vì chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự (Bộ LTTDS) và hướng dẫn tại khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao (Nghị quyết số 05). Do vậy, việc Tòa án thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện của ông Chí là vi phạm những quy định nêu trên. Hơn nữa, vì anh Chung không có mặt tại địa chỉ Khu 3 vào thời điểm ông Chí khởi kiện, nên anh Chung không thể biết và không buộc phải biết việc khởi kiện của ông Chí. Anh Chung không nhận được thông báo thụ lý vụ án của Tòa án, không có căn cứ để cho rằng anh Chung cố tình giấu địa chỉ, do đó việc Tòa án tiến hành thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung là không đúng theo hướng dẫn tại khoản 6 Điều 9 Nghị quyết số 05.
Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, anh Chung vẫn vắng mặt nơi cư trú. Nhưng Tòa án không đình chỉ giải quyết vụ án mà vẫn giải quyết vụ án là thực hiện không đúng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 192 Bộ LTTDS.
Tòa án không gửi, giao trực tiếp các văn bản tố tụng (thông báo thụ lý, thông báo hòa giải...) cho anh Chung, chỉ tiến hành niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn Thắng, Hiệp Hòa; mà không niêm yết tại trụ sở Tòa án, tại nơi cư trú cuối cùng của anh Chung là thực hiện không đúng quy định tại khoản 2 Điều 154 Bộ LTTDS. Việc Tòa án tiến hành giải quyết vụ án khi không đảm bảo tính hợp lệ của việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng cho anh Chung là vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 150 Bộ LTTDS.
Anh Chung không có lời khai, ý kiến gì đối với các nội dung ông Chí đã trình bày và yêu cầu Tòa án giải quyết; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ghi ngày 01/8/2011; giấy chuyển nhượng đất ghi ngày 01/10/2011 giữa ông Chí và anh Chung (tài liệu do ông Chí cung cấp giao nộp cho Tòa án) đều không được công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền; không có tài liệu thể hiện ông Chí đã trồng cây lâu năm, làm nhà kiên cố trên phần đất đã nhận chuyển nhượng. Nên việc Tòa án chỉ căn cứ lời khai của ông Chí; tài liệu do ông Chí cung cấp giao nộp và nhận định căn cứ quy định tại điểm b.3 mục 2.3 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao để xử công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa ông Chí và anh Chung lập ngày 01/8/2011là không đủ cơ sở; không đúng quy định tại khoản 2 Điều 689 Bộ luật dân sự.
Ông Chí khởi kiện đề nghị Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa ông và anh Chung, để ông được thực hiện các thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất đối với diện tích đất nhận chuyển nhượng. Nhưng Tòa án lại giải quyết, ông Chí được quyền sử dụng đất (thửa số 115) và sở hữu nhà ở gắn liền với thửa đất đó, nhưng ông Chí phải hoàn tất các thủ tục sang tên trước bạ, đăng ký quyền sử dụng đất tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, Tòa án đã giải quyết ngoài phạm vi yêu cầu khởi kiện của ông Chí, vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 5 Bộ LTTDS.
Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 868116 cấp ngày 26/12/2001 thể hiện ban đầu anh Chung được quyền sử dụng 195,5m2 đất tại thửa số 115, tờ bản đồ số 11 ở thị trấn Thắng; sau đó ngày 29/9/2008 anh Chung đã chuyển nhượng cho ông Bùi Văn Thanh, bà Hoàng Thị Bích Ngọc 92m2 đất. Như vậy, trong thửa số 115 anh Chung chỉ còn được sử dụng 103,5m2 đất. Theo ông Chí trình bày và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Chí và anh Chung thì anh Chung chuyển nhượng cho ông Chí 103,5m2 đất (một phần diện tích của thửa đất số 115) và theo biên bản định giá ngày 4/7/2014 thì đo đạc thực tế phần đất mà ông Chí cho rằng anh Chung đã chuyển nhượng cho ông có diện tích là 94m2. Nhưng Tòa án lại giải quyết là ông Chí được quyền sử dụng đất (thửa số 115), mà không xác định rõ vị trí, kích thước các cạnh tiếp giáp, diện tích đất ông Chí được quyền sử dụng là không đúng, không rõ ràng.
Do bản án sơ thẩm có những vi phạm nghiêm trọng về tố tụng và nội dung giải quyết vụ án, nên Viện KSND tỉnh Bắc Giang đã ban hành quyết định kháng nghị theo thủ tục phúc đối với bản án nêu trên và đề nghị TAND tỉnh Bắc Giang đưa vụ án nêu trên ra xét xử phúc thẩm, theo hướng hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2016/DSST ngày 19/02/2016 của TAND huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang và đình chỉ giải quyết vụ án./.
Nguyễn Thị Tuyết
P9 VKSND tỉnh Bắc Giang