.

Thứ năm, 25/04/2024 -22:50 PM

Định tội danh trong vụ án hình sự cụ thể

 | 

Định tội danh là việc xác định hành vi khách quan thoả mãn cấu thành một tội phạm nhất định được quy định trong Bộ luật hình sự. Bộ luật hình sự hiện nay có một số tội được mô tả hành vi khách quan có những điểm tương tự nhau và trong thực tiễn việc xác định tội danh gặp nhiều khó khăn, còn nhiều quan điểm tranh luận. Trong bài viết này chúng tôi không đề cấp đến vấn đề có tính chất lý luận về định tội danh, mà chỉ đề cập đến nội dung của một vụ án cụ thể còn đang có nhiều quan điểm tranh luận, mục đích tranh thủ ý kiến của đồng nghiệp có kinh nghiệm trong giải quyết án hình sự, qua đó có quan điểm thống nhất giải quyết vụ án này.

Nội dung vụ án như sau: Buổi tối ngày 24/5/2014 Nguyễn Văn N, sinh năm 1990, trú tại Thôn D, xã P.N, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang có đi từ nhà xuống Phố B, xã B.Đ, Lục Ngạn, Bắc Giang vào cửa hàng bán điện thoại của anh Bạch Xuân K, sinh năm 1975 mục đích để xem điện thoại, nếu thấy sơ hở sẽ lấy điện thoại, tài sản của cửa hàng, khi vào cửa hàng N không có tiền. Tại cửa hàng bán điện thoại Nguyễn Văn N có nói với anh K cho xem chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GLAXY SII HD, anh K đưa cho N xem, N hỏi giá anh K nói giá là 3.000.000 đồng, N giả vờ đồng ý mua và đút điện thoại vào túi quần trước sự chứng kiến của anh K. Sau đó N tiếp tục hỏi mua thêm 1 chiếc điện thoại NOKIA 503 nữa, lúc này chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1977 là vợ của anh K đang đứng bán hàng cùng chồng nên có lấy chiếc điện thoại NOKIA 503 cho N xem, chị H có nói với N là “mua thêm cái nữa tặng người yêu à”, N không nói gì mà hỏi giá, chị H nói là 2.000.000 đồng, N tiếp tục giả vờ đồng ý mua. Lúc này N có bảo với chị H là mua thêm 1 chiếc SIM cho điện thoại NOKIA 503. Chi H lấy SIM cho N, tuy nhiên muốn dùng được chiếc SIM nêu trên cho máy điện thoại NOKIA 503 thì phải cắt SIM nên chị H đã cắt SIM ở tại nơi bán hàng cho N. Trong lúc chị H đang cúi mặt xuống cắt SIM, anh K đang làm việc tại cửa hàng không để ý thì đối tượng Nguyễn Văn N đã lấy 2 chiếc điện thoại nêu trên cùng hộp phụ kiện để trên mặt tủ kính bán hàng bỏ chạy ra ngoài đường. Cùng lúc thì vợ chồng anh K, chị H đuổi theo, hô hoán cùng người dân đuổi bắt được N. Kết quả định giá tài sản chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY SII HD trị giá tại thời điểm chiếm đoạt là 2.900.000 đồng và chiếc điện thoại NOKIA 503 trị giá 1.900.000 đồng.

Sau khi thụ lý giải quyết vụ án này có nhiều quan điểm về việc xác định tội danh đối với N, tất cả 4 quan điểm về các tội danh khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng N phạm tội “Cướp giật tài sản” quy định tại Điều 136 BLHS. Quan điểm thứ hai cho rằng Nguyễn Văn N phạm tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 137 BLHS, vì N thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản công khai, ngay trong phạm vi quan sát, nhìn thấy của chủ sở hữu. Quan điểm thứ ba cho rằng N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 139 BLHS vì N đã có hành vi nói dối (gian dối) với vợ chồng anh K để vợ chồng anh K cho N xem điện thoại (tức là giao tài sản cho N). Quan điểm thứ tư cho rằng N phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 138 BLHS vì N đã lấy 2 chiếc điện thoại trong lúc vợ chồng anh K không để ý, quan sát và hành vi đó là lén lút lấy tài sản.

- Đối với Quan điểm thứ nhất: Về quan điểm này chúng tôi đồng tình, hành vi của N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” vì các lý do sau:

Thứ nhất: Nguyễn Văn N có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định luật hình sự. Hành vi của N trực tiếp xâm hại đến quan hệ sở hữu là quan hệ được pháp luật hình sự bảo vệ.

Thứ hai: Sau khi tiếp cận được tài sản thì N ngay lập tức thực hiện hành vi nhanh chóng lấy tài sản, nhanh chóng rời khỏi cửa hàng. Hành vi này đã thoả mãn dấu hiệu hành vi của tội Cướp giật tài sản là “Nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thoát”. Tuy hành vi đó là công khai nhưng phân biệt rõ với tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản ở chỗ Công khai nhanh chóng chiếm đoạt tài sản, nhanh chóng rời khỏi hiện trường nhằm thoát khỏi sự truy đuổi, bắt giữ khi bị phát hiện. Tài sản do N chiếm đoạt có giá trị tại thời điểm định giá là 5.000.000 đồng.

Thứ ba: Lỗi do N thực hiện là lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức rõ về hành vi phạm tội và mong muốn thực hiện tội phạm đó. Mục đích của N ngay từ khi vào cửa hàng anh K là lấy tài sản, mục đích này được rõ hơn khi N tiếp cận được tài sản của chủ sở hữu. Mục đích này thể hiện rõ ở việc N nhận thấy việc tiếp cận được 2 chiếc điện thoại, N cho rằng đã đầy đủ, không cần xem tiếp (tức là tiếp cận đầy đủ tài sản) và lúc này chỉ cần chiếm đoạt nhanh chóng, nhanh chóng rời khỏi hiện trường. Tất cả các hành vi gian đối giả vời mua bán, giả vờ mua SIM điện thoại tất cả đều là “thủ đoạn” của N để tiếp cận tài sản và lợi dụng lúc sơ hở nhất của chủ sở hữu là thực hiện ngay hành vi chiếm đoạt tài sản, việc lấy tài sản hoàn toàn ngang nhiên trước sự quản lý của chủ sở hữu, không hề có sự che giấu, lén lút.

Thứ tư: Chủ sở hữu tài sản là vợ chồng anh K hoàn toàn có khả năng quản lý trực tiếp đối với tài sản và thực tế là chưa thực hiện việc bàn giao tài sản cho N. Việc đưa tài sản cho N chỉ là hoat động “cho xem”, mua bán điện thoại bình thường, tuy nhiên hành vi đó chủ sở hữu đã vô tình để sở hở tài sản và N đã lợi dụng sơ hở đó để chiếm đoạt tài sản.

- Về quan điểm thứ hai: N phạm tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản”: Chúng tôi không đồng ý với quan điểm này vì Công nhiên chiếm đoạt tài sản là Công khai thực hiện hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng xảy ra trong trường hợp người chủ tài sản không có điều kiện quản lý trực tiếp hoặc ngăn cản thực hiện hành vi phạm tội. Trong tình huống trên tuy N chiếm đoạt tài sản trong sự quan sát, nhìn thấy của vợ chồng anh K, tuy nhiên vợ chồng anh K hoàn toàn có đủ khả năng và điều kiện để thực hiện việc quản lý trực tiếp đối với tài sản, thể hiện ở việc ngay sau khi N lấy 2 chiếc điện thoại bỏ chạy vợ chồng anh K đã đuổi theo và hô hoán mọi người xung quanh đuổi bắt N, tức là vợ chồng anh K có đủ điều kiện để ngăn cản việc K chiếm đoạt tài sản và thực tế ngay sau đó đã bắt giữ được K, việc bắt giữ được K cũng phần nào thể hiện rõ khả năng và điều kiện quản lý tài sản của chủ sở hữu. Mặt khác N nhanh chóng thực hiện chiếm đoạt tài sản, nhanh chóng rời khỏi hiện trường không phải là đặc trưng của tội này.

- Về quan điểm thứ ba: N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”: Đối với quan điểm này nhận thấy N có hành vi giả vờ mua điện thoại để vợ chồng anh K đưa tài sản cho N, tuy nhiên trong trường hợp này chưa thoả mãn dấu hiệu chiếm đoạt tài sản của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ở tình huống nêu trên cần phân biệt giữa các khái niệm “đưa tài sản cho xem” và “giao tài sản cho người khác”. Hành vi gian dối của N ở đây chỉ là để tiếp cận tài sản, chưa chiếm đoạt được tài sản, hành vi gian dối của N là thủ đoạn để N thực hiện hành vi chiếm đoạt của tội phạm khác, hành vi chiếm đoạt tài sản sau đó bỏ chạy thoả mãn dấu hiệu của tội khác. Trong tình huống nêu trên việc vợ chồng anh K đưa tài sản cho N là để N xem chứ chưa thực hiện việc giao tài sản quản lý, chưa chấm dứt việc quản lý đối với tài sản sở hữu.

- Quan điểm thứ tư: cho rằng N phạm tội “Trộm cắp tài sản”: Từ tình huống nêu trên cho thấy N hoàn toàn không có hành vi lén lút. Vì hành vi lén lút phải thể hiện ở việc, về chủ quan người thực hiện hành vi phạm tội che giấu hành vi của mình với chủ sở hữu, với người xung quanh và còn có ý thức che giấu tính bất minh của hành vi đó. Tuy nhiên trong tình huống trên N hoàn toàn nhận thức được và biết được sau khi lấy tài sản rời khỏi cửa hàng thì ngày lập tức sẽ bị vợ chồng anh K phát hiện. Tức là việc lấy đi 2 chiếc điện thoại nêu trên của N hoàn toàn không có sự che giấu, lén lút đối với chủ sở hữu và che giấu hành vi phạm tội của mình.

Từ những phân tích, nhận định, đánh giá trên tác giả nhận thấy quan điểm N phạm tội “Cướp giật tài sản” quy định tài Điều 136 Bộ luật hình sự là phù hợp. Tuy nhiên vấn đề đưa ra còn nhiều quan điểm, ý kiến tranh luận, bản thân chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc giải quyết án hình sự, do vậy rất cần các ý kiến tham gia đóng góp của các đồng chí đối với tình huống này để đảm bảo việc giải quyết án được khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.

Nguyễn Đức Cường

 

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:27,759,201
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.145.16.90

    Thư viện ảnh