.

Thứ ba, 23/04/2024 -13:36 PM

Nguyên đơn lại phải bồi thường thiệt hại cho bị đơn vì đã kiện đòi nợ bị đơn?

 | 

Nguyên đơn bà T trình bày, bà đã 3 lần cho bà P vay tiền tổng cộng 1.400.000.000đ (lần 1 và 2 mỗi lần 500.000.000đ; lần 3 là 400.000.000đ). Khoản  vay lần 1 bà P đã thanh toán trả cho bà bằng quyền sử dụng diện tích đất 100m2, hai bên có lập hợp đồng chuyển nhượng đất. Bà đã trả lại bản gốc giấy biên nhận vay tiền lần 1 cho bà P. Đối với khoản vay lần 2 và 3 đến hạn thanh toán bà đã yêu cầu nhiều lần nhưng bà P không thanh toán trả, nên bà khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết buộc bà P phải trả cho bà 900.000.000đ. Bà T đã giao nộp cho Tòa án bản gốc giấy biên nhận vay tiền lần 2, 3 có chữ ký nhận vay tiền của bà P để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình. Bà T không đồng ý với yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của bà T.

Bị đơn bà P chỉ thừa nhận đã vay tiền của bà T 2 lần tổng 900.000.000đ (lần 1 là 500.000.000đ; lần 2 là 400.000.000đ) theo đúng như 02 bản gốc giấy biên nhận vay tiền do bà T giao nộp cho Tòa án. Bà đã thanh toán trả khoản vay lần 1 bằng quyền sử dụng diện tích đất 100m2. Khi hai bên lập hợp đồng chuyển nhượng đất, bà T vẫn giữ bản gốc giấy biên nhận vay tiền lần 1 mà không hủy hoặc trả lại cho bà. Đối với khoản vay lần 2 là 400.000.000đ bà cũng đã thanh toán trả hết, khi trả tiền do không để ý bà đã ghi vào mặt sau của bản phô tô giấy biên nhận vay tiền do bà T đưa mà không ghi vào bản gốc. Nên bản gốc giấy vay tiền không có nội dung thể hiện bà đã hết trả tiền. Bà P không đồng ý việc bà T yêu cầu bà trả 900.000.000đ.

Bà P cho rằng, sau khi bà T khởi kiện bà ra Tòa án bà đã ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm thức ăn chăn nuôi với Công ty A với nội dung trong hai năm nếu bà tiêu thụ được trên 4.000 tấn thức ăn thì Công ty sẽ thưởng cho bà 300đ/01kg sản phẩm đã bán được. Khi mới thực hiện hợp đồng được 3 tháng (trung bình bà bán được 199.750kg/tháng nên sẽ được Công ty A thưởng 59.925.000đ/tháng), thì Công ty A cho rằng bà mất uy tín trong việc làm ăn (do bị bà T khởi kiện) nên đã hủy hợp đồng với bà. Dẫn đến việc bà không được kinh doanh và gây thiệt hại cho bà không được hưởng số tiền sẽ được thưởng nêu tiếp tục kinh doanh là 1.438.200.000đ. Bà P yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà T phải bồi thường thiệt hại do đã xâm phạm uy tín, danh dự, vật chất của bà với số tiền là 1.438.200.000đ.

Tòa án nhân dân huyện T đã nhận định, bà T chỉ cho bà P vay hai lần tiền tổng 900.000.000đ. Bà P đã thanh toán trả cho bà T 500.000.000đ bằng quyền sử dụng 100m2 đất. Bà P chỉ còn nợ 400.000.000đ nên đã xử buộc bà P trả cho bà T 400.000.000đ và cho rằng bà T không được chấp nhận yêu cầu đòi nợ số tiền 500.000.000đ là đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, vật chất của bà P. Bà P bị Công ty A chấm dứt hợp đồng, không được kinh doanh thức ăn chăn nuôi nữa nên tính từ ngày ký hợp đồng với Công ty A (sau ngày Tòa án thụ lý vụ án) đến ngày xét xử sơ thẩm bà P không được hưởng số tiền thưởng nếu kinh doanh là 599.250.000đ, đây số tiền thiệt hại về uy tín, danh dự, vật chất của bà P nên đã  xử buộc bà T phải bồi thường 599.250.000đ cho bà P và buộc bà T phải chịu 27.970.000đ án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải bồi thường.

Xem xét việc giải quyết vụ án của Tòa án thấy rằng, theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Bộ luật tố tụng dân sự thì “Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự  tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”. Việc bà T khởi kiện vụ án dân sự không phải là hành vixâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của bà P. Hơn nữa việc bà P cho rằng bà không được hưởng số tiền “sẽ” được Công ty A thưởng là số tiền thiệt hại do bà T gây ra là không có cơ sở. 

Việc Tòa án nhân dân huyện T đã xử chấp nhận một phần yêu cầu của bà T, buộc bà P trả nợ cho bà T nhưng lại cho rằng bà T không được chấp nhận một phần yêu khởi kiện là đã xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, vật chất của bà P, dẫn đến việc bà P bị thiệt hại về tài sản, không được hưởng số tiền “sẽ” được thưởng để xử buộc bà T phải bồi thường cho bà P và phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải bồi thường là không có căn cứ, không đúng quy định tại Điều 584, Điều 592 Bộ luật dân sự, không đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho bà T.

Không đồng tình với quan điểm giải quyết vụ án của Tòa án, sau khi xét xử sơ thẩm bà T đã kháng cáo và Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tài sản của bà P đối với bà T.

Tòa án cấp phúc thẩm đã thụ lý vụ án để xem xét giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự./.

Nguyễn Thị Minh

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:27,741,964
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:18.222.69.152

    Thư viện ảnh